Trong những năm gần đây, nhiều thị trường mới nổi đã trải qua những  cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhắc đến như khủng hoảng Mexico năm  1994, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng Argentine 2001. Có  rất nhiều băn khoăn xung quanh sự xuất hiện của những cuộc khủng hoảng  này, tuy nhiên có lẽ băn khoăn lớn nhất và cũng cần giải đáp tốt để có  thể tránh được những cuộc khủng hoảng khác là làm thế nào một đất nước  từ trạng thái tăng trưởng cao ngay trước cuộc khủng hoảng có thể biến  chuyển rất nhanh chóng sang trạng thái khủng hoảng, sụt giảm kinh tế  trầm trọng.  
Trên góc độ kinh tế, Frederic Mishkin, tác giả cuốn  sách The Economics of Money, Banking and Financial Markets, đã tiếp cận  giải thích trên khía cạnh vấn đề thông tin bất cân xứng. Chúng ta thử  đi theo dòng phân tích của ông để hiểu về cơ chế cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997. 
Tiến  trình xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á rất khác với những gì đã xảy ở  nước Mỹ, sự khác biệt này đến từ những đặc trưng khác nhau của cách thức  tổ chức thị trường vốn và thị trường nợ. Hình dưới mô tả các giai đoạn xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á. 
Một trong những yếu tố căn bản dẫ đến cuộc khủng hoảng là tình trạng xấu đi nhanh chóng của bảng cân đối kế toán  ngân hàng mà nguyên nhân trực tiếp là từ những khoản vay không có khả  năng thanh toán ngày càng tăng. Khi những quốc gia, đặc biệt ở khu vực  Đông Á, bắt đầu nới lỏng các quy định với thị trường tài chính vào đầu  những năm 1990, một làn sóng vay dâng lên rất cao, trong đó, hoạt động  cho vay tín dụng với các khu vực kinh doanh phi tài chính tư nhân tăng  đặc biệt nhanh. Cũng đồng thời do khả năng giám sát yếu của các cơ quản  điều hành pháp lý ngân hàng, bản thân ngân hàng thiếu chuyên gia trong  việc theo dõi và giám sát hành vi của đối tương vay, những khoản lỗ do  nợ xấu bắt đầu tăng lên, tác động tiêu cực đến cả nguồn vốn thực của  ngân hàng. Nguồn lực bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho  vay, khi hoạt động cho vay không còn được tiếp tục, các hoạt động của  nền kinh tế bị thu hẹp là điều dễ hiểu và tất yếu.
 				 				
 		
Tuy có nhiều điểm khác với những cuộc khủng hoảng va suy thoái xảy ra cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở Mỹ,  vẫn có một số điểm chung quan trọng ta có thể đưa ra so sánh, một trong  những điểm chung đó là sự biến động tăng giảm bất thường và bất ổn của  thị trường chứng khoán ở giai đoạn trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng và  đóng góp vào làm trầm trọng hơn tác động của nó, những quốc gia diễn ra  điểm này rõ nhất là Thailand, Nam Triều Tiên. Những quốc gia như  Indonesia, Malaysia, và Philipines, tình trạng sụt giảm thị trường lại  xảy ra đồng thời khi diễn ra cuộc khủng hoảng. Tại Thailand và Hàn Quốc,  trước khi cuộc khủng hoảng diễn ra, nền kinh tế những nước này đã chứng  kiến sự sụp đổ của những tập đoàn tài chính và phi tài chính lớn, những  vụ sụp đổ này tác động tiêu cực và làm tăng tính bất ổn chung của thị  trường tài chính trong nước. 
Theo F.Mishkin, khi mà sự bất ổn  tăng lên và giá trị ròng toàn thị trường chứng khoán (TTCK) suy giảm thì  vấn đề thông tin bất cân xứng sẽ phát sinh. Đối với ngân hàng, sẽ có  nhiều khó khăn trong việc xác định đâu là đối tượng cho vay tốt và đâu  là không tốt. Suy giảm giá trị ròng toàn thị trường cũng đồng nghĩa với  việc suy giảm giá trị của tài sản thế chấp, ký quỹ, đồng thời tăng khả  năng đối tượng nhận vay nợ thực hiện các khoản đầu tư có mức độ rủi ro  cao do lượng tài sản họ mất đi nếu khoản đầu tư không thành công sẽ nhỏ  hơn. Sự gia tăng mức độ bất ổn và suy giảm TTCK xảy ra trước khi thực sự  diễn ra cuộc khủng hoảng, cộng với các bảng cân đối tài sản của ngân  hàng ngày một xấu đi, tất cả góp phần làm nảy sinh nhiều hơn vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Tất cả sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tiến ngày càng gần hơn đến một cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng.
Đến giai đoạn này, hoạt động đầu cơ  nở rộ, xuất hiện đặc biệt nhiều trên các thị trường ngoại hối, đẩy nền  kinh tế vào cuộc khủng hoảng trên mọi phương diện. Với Thailand, sự lo  lắng về tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai và suy yếu của hệ thống  tài chính, đẩy lên đỉnh điểm bởi sự sụp đổ của một một công ty tài chính  lớn - Finance One, đã đưa đến một "cuộc chiến đầu cơ" lớn, tác động làm  cho Ngân hàng Trung ướng Thailand phải cho phép thả nổi đồng Baht vào  7/1997. Không lâu sau, lại xuất hiện một "cuộc chiến đầu cơ" khác tác  động vào những quốc gia còn lại trong khu vực và kết quả là sự sụp đổ  dây chuyền của đồng Peso Philipines, đồng Rupiah Indonesia, đồng Ringgit  Malaysia và đồng Won Hàn Quốc.
Cấu trúc tổ chức thị trường nợ khu vực Đông Á, tương tác với tình trạnh phá giá tiền tệ đẩy nền  kinh tế khu vực tới cuộc khủng hoảng toàn diện. Có quá nhiều doanh  nghiệp ở những quốc gia này có các khoản nợ phát hành bằng ngoại tệ như  đồng USD hay Yen Nhật, sự mất giá đồng tiền trong nước làm cho tình  trạng vay nợ, xét trên góc độ đồng nội tệ, thêm trầm trọng, ngay cả khi  trên thực tế giá trị tài sản  của họ không hề thay đổi. Vào tháng  3/1995, khi đồng Peso mất nửa giá trị, tiền của các quốc gia như  Thailand, Philipine, Malaysia và Hàn Quốc cũng mất trong khoảng từ một  phần ba đến một nửa giá trị vào thời điểm đầu năm 1998, thì bản cân đối  kế toán của hầu hết các doanh nghiệp đều đã xuất hiện những khoản lỗ  lớn, vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trở lên trầm trọng.  Trầm trọng nhất là Indonesia với đồng tiền mất giá đến 75% dẫn đến tình  trạng vỡ nợ đối với những khoản nợ bằng ngoại tệ và giá trị những khoản nợ này không hề nhỏ, thậm chí rất lớn. 
Một kết quả tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát  thực tế và lạm phát kỳ vọng đều tăng, từ đó lãi suất trên thị trường  cũng tăng chóng mặt. Doanh nghiệp và các hộ gia đình do đó cũng phải  thanh toán lãi suất rất cao, tác động tiêu cực đến bảng cân đối tài sản  của họ. Thị trường nợ ở các quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng  là những hợp đồng nợ có kỳ hạn rất ngắn, thường là dưới một tháng. Do  đó lãi suất ngắn hạn tăng lên ở những quốc gia này đồng nghĩa với tác  động rất lớn đến dòng tiền và bảng cân đối kế toán của các đơn vị trong  nền kinh tế. Theo phân tích về tình trạng thông tin bất cân xứng của  Mishkin, tác động xấu tới bảng cân đối tài sản, tiêu hao tài sản của  doanh nghiệp và hộ gia đình làm cho các lựa chọn đối nghịch và rủi ro  đạo đức đối với thị trường vay nợ cũng tăng theo và những tổ chức cho  vay trong và ngoài nước không còn muốn tiếp tục cho vay nữa. Khi mà hoạt  động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm thì cũng đồng nghĩa với việc các  hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng GDP thực  cũng sẽ sụt giảm theo.
Hình vẽ trên cho ta thấy tình trạng "xói  mòn" tài sản trong nền kinh tế hình thành do các hoạt động trong nền  kinh tế bị đình trệ và tình trạng xấu đi trong bản cân đối tài sản và  xói mòn tài sản của từng doanh nghiệp, hộ gia đình, kết quả là tác động  tiêu cực hơn đến cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng. Những vấn đề  mà các doanh nghiệp và hộ gia đình đang phải đối mặt là phần lớn trong  số những đơn vị cơ bản của nền kinh tế này đã không còn khả năng thanh  toán nợ, điều này quay trở lại gây thiệt hại cho ngân hàng. Hệ thống  ngân hàng còn phải đối mặt với một vấn đề trầm trọng khác là khối lượng  rất lớn những khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ, trong khi đồng tiền trong  nước bị phá giá, giá trị của những khoản nợ này tăng lên vùn vụt, điều  này tiếp tục làm tiêu hao đi lượng tài sản thực đang còn rất ít của các  ngân hàng. Trong tình trạng đó, lẽ ra toàn bộ hệ thống ngân hàng đã có  thể sụp đổ nếu không có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ - giống như những gì  Chính phủ Mỹ đã làm trong cuộc Đại khủng hoảng - nhưng không phải với nội lực của từng quốc gia mà nhờ sự giúp đỡ của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế),  nhờ sự giúp đỡ này mà các quốc gia Đông Á tránh được một vụ sụp đổ với  hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, với lượng vốn mà các ngân hàng đã mất thì  sự can thiệp của Chính phủ nhằm chống đỡ cho hệ thống ngân hàng cũng  không thể ngăn được năng lực cho vay của các ngân hàng sụt giảm mạnh.  Mishkin giải thích khủng hoảng của hệ thống ngân hàng với những đặc tính  như mô tả tạo lên một rào cản và gây khó khăn đối với các họat động cho  vay của ngân hàng, làm trầm trọng thêm các vấn đề về lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính, ngân hàng mất dần vai trò truyền thống trung gian tài chính. Một số thông số về biến động các quốc gia Đông Á trong khủng hoảng:
Philippines
Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất  lên1.75 điểm phần trăm và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997.  Khi cuộc khủng hoảng bắt đầu diễn ra tại Thailand vào ngày 2/7/1997 thì  một ngày say đó, ngày 3/7/1997, NHTW Philippines bị buộc phải can thiệp  sâu vào thị trường nhằm bảo vệ đồng peso, tăng mức lãi suất vay qua đêm  từ 15% lên 24%. Giá trị đồng peso giảm mạnh từ 26 peso ăn một USD lên 38  peso vào năm 2000, và lên 40 peso khi kết thúc cuộc khủng hoảng.
Hong Kong
Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trả  Hong  Kong lại cho Trung Quốc. Tháng 10/1997, tỉ giá đô-la Hong Kong được cố  định so với đô-la Mĩ là 7,8:1, tuy nhiên chịu sức ép rất lớn từ hoạt  động đầu tư bởi lạm phát của Hong Kong đã cao hơn rất nhiều so với lạm  phát của Mĩ và tình trạng này kéo dài nhiều năm. Cơ quan quản lý tiền tệ  Hong Kong đã chi hơn một tỉ USD để bảo vệ đồng tiền trong nước. Tuy giữ  được tỉ giá đồng tiền, TTCK Hong Kong trở lên cực kỳ bất ổn, chỉ số  Hang Seng tụt 23% chỉ trong vòng ba ngày từ 20-23/10/1997. Lãi suất tiền  vay qua đêm được nâng lên chóng mặt, đứng trước sức ép từ hoạt động đầu  cơ, Chính phủ Hong Kong khẳng định tuyên chiến với hoạt động đầu cơ.  Chính phủ đã kết thúc cuộc chiến này bằng việc bỏ ra xấp xỉ 120 tỉ đô-la  Hong Kong (khoảng 15 tỉ USD) để mua lại cổ phiếu của nhiều doanh  nghiệp, trở thành cổ đông lớn trong một số công ty, chẳng hạn tại HSBC  Chính phủ năm 10% cổ phần. 
Hàn Quốc
Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên  thế giới. Khi khủng hoảng xảy ra, với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ  thống ngân hàng bắt nguồn từ những khoản nợ kém hiệu quả rất lớn,  Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3 vào tháng 11/1997  và tiếp tục hạ xuống B2 vào tháng 12. Sự kiện này góp phần làm thị TTCK  Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn, giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào  ngày 8/11 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF yêu cầu Hàn Quốc  thực hiện cải tổ hệ thống tài chính. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia  Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế  do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải  bán lại cho General Motors.
Đồng won Hàn Quốc giảm từ 1000 xuống  1700 won đổi một USD. Dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện GDP trên  đầu ngườ, sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so  với trước đó.
Malaysia
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%.  Malaysia là quốc gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều  này phản ánh qua việc KLSE (sàn giao dịch chứng khoán chính thức của  Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên thế giới  (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa  thị trường thấp hơn rất nhiều.) Ở thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng  quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước phát  triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE  Index đang ở mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với  USD, lãi suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên  40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán  chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt  xuống dưới mức bình quân cho các khoản đầu tư không đảm bảo, KLSE mất  50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng ringgit cũng mất 50% giá trị, còn 3.8  đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7% giá  trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
Nước Mỹ và Nhật Bản
Dịch  cúm Châu Á cũng có ảnh hưởng đến nước Mỹ và Nhật Bản. Nền kinh tế tuy  không sụp đổ nhưng cũng bị tác động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ  công nghiệp giảm 554 điểm, tương đương 7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch  trong thời gian ngắn.
Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là  nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều nước Châu Á khác ở trong tình trạng  thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng hoảng, đồng  yen Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra ồ ạt. Tốc độ  tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng hoảng  Châu Á cũng làm một số doanh nghiệp ở Nhật phá sản.
 				----------------------------------------------------------
Bài hợp tác của  				 						www.saga.vn 				 				với Báo Điện tử Khuyến học & Dân trí. Bạn đọc có thể tham  khảo bài viết theo link sau đây:  http://dantri.com.vn/kinhdoanh/2007/5/177205.vip
---------------------------------------------------------- 		
Lưu Quý Phương © Saga.vn (6/2007)
hic, mìg mù tịt
ReplyDelete