Showing posts with label Chinhtri. Show all posts
Showing posts with label Chinhtri. Show all posts

Tuesday, 13 August 2019

670.0 First they came...

First they came for the communists,
and I didn't speak out because I wasn't a communist.

Then they came for the trade unionists,
and I didn't speak out because I wasn't a trade unionist.

Then they came for the Jews,
and I didn't speak out because I wasn't a Jew.

Then they came for me,
and there was no one left to speak out for me.
Martin Niemoeller (1892 - 1984, German pastor and theologian) on how Nazi German triumphed thanks to the inert of those who should have taken actions, German intellectuals.
From "They thought they were free" (1985) - Milton Mayer

Bonus: https://www.amazon.com/They-Thought-Were-Free-Germans/dp/0226511928
First published in 1955, They Thought They Were Free is an eloquent and provocative examination of the development of fascism in Germany. Mayer’s book is a study of ten Germans and their lives from 1933-45, based on interviews he conducted after the war when he lived in Germany. Mayer had a position as a research professor at the University of Frankfurt and lived in a nearby small Hessian town which he disguised with the name “Kronenberg.” “These ten men were not men of distinction,” Mayer noted, but they had been members of the Nazi Party; Mayer wanted to discover what had made them Nazis.

“What happened here was the gradual habituation of the people, little by little, to being governed by surprise; to receiving decisions deliberated in secret; to believing that the situation was so complicated that the government had to act on information which the people could not understand, or so dangerous that, even if the people could not understand it, it could not be released because of national security. And their sense of identification with Hitler, their trust in him, made it easier to widen this gap and reassured those who would otherwise have worried about it.”--from Chapter 13, “But Then It Was Too Late

 

Sunday, 15 April 2018

667. Ai nuôi Nhà nước? - Trần Đức Nguyên

 Ai nuôi Nhà nước?
Thử làm một cuộc thăm dò ở nước ta xem bao nhiêu phần trăm công dân biết rằng Nhà nước do mình nuôi bằng thuế?...
Trong một dịp đi họp ở Mỹ cách đây trên 10 năm, tôi đến một cửa hàng mua đôi giày da. Sau khi chọn và đi thử một đôi có giá 96 USD, tôi trả tiền bằng tờ bạc 100 USD. Người bán hàng nói còn thiếu, tôi chỉ vào biển ghi giá thì được giải thích là giá này còn phải cộng thêm 10% thuế mà người tiêu dùng đóng cho Nhà nước. Sang Canada, tôi cũng thấy cách tính thuế tương tự đối với hàng hóa và dịch vụ.
Tôi nêu vấn đề với các chuyên gia kinh tế sở tại: Ở Việt Nam, thuế hàng hóa được thu ngay khi hàng xuất xưởng và được gọi là thuế gián thu (thu gián tiếp) vì thu từ doanh nghiệp sản xuất hàng nhưng thực chất tiền thuế ấy đánh vào người tiêu dùng. Thay vì thu rải rác khi có người mua hàng, nay thu gọn một nơi, một lúc khi hàng xuất xưởng chẳng tiện hơn sao?
Người đối thoại với tôi giải thích về cách thu thuế của họ như sau: Trước hết đây là thuế mà người tiêu dùng đóng nên khi nào hàng được tiêu thụ thì mới tính thuế; nếu thu trước từ người sản xuất mà ở khâu bán lẻ, hàng không bán được thì sao? Lẽ thứ hai, chúng tôi muốn người dân biết rõ và luôn luôn nhớ là mình đóng thuế nuôi Nhà nước; thuế thu nhập cá nhân cũng nhắc nhở điều đó, nhưng mỗi tháng hoặc mỗi quý chỉ một lần nộp, còn thuế hàng hóa, dịch vụ thì hầu như ngày nào dân cũng đóng. Chính vì thế nên giá hàng khi niêm yết là giá chưa có thuế hàng hóa để người mua tự tính thêm.
Đối với thuế mà người tiêu dùng phải nộp, cách thu trực tiếp hay thu gián tiếp hợp lý và có lợi hơn, tôi không phải chuyên gia về thuế nên không dám so sánh, song thấy rất ấn tượng về cái lẽ thứ hai mà họ giải thích. Nguồn thu của ngân sách nhà nước là do dân đóng góp dưới nhiều hình thức; viện trợ không hoàn lại của nước ngoài chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ; thu từ tài nguyên cũng là nguồn thu do tài sản thuộc sở hữu toàn dân mang lại; bội chi ngân sách được bù đắp bằng các khoản vay trong và ngoài nước, rút cuộc cũng do dân trả nợ trong các năm sau. Ở nước ta, kinh phí hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị-xã hội cũng dựa vào ngân sách nhà nước toàn bộ hoặc phần lớn, nên có thể nói dân ta nuôi cả hệ thống chính trị.
Cách thu thuế như ở Mỹ và Canada nhằm thường xuyên nhắc nhở người dân hiểu và nhớ rằng mình nuôi Nhà nước là một biện pháp thiết thực tôn trọng người dân, cổ vũ dân chủ. Người dân ý thức rõ là bộ máy nhà nước do dân nuôi nên bộ máy này phải phục vụ dân; người nuôi bộ máy có quyền đòi hỏi các cơ quan công quyền phải thực hiện đúng quy chế công khai, minh bạch và được dân giám sát.
Thử làm một cuộc thăm dò ở nước ta xem bao nhiêu phần trăm công dân biết rằng Nhà nước do mình nuôi bằng thuế? Có thể nói chắc là tỷ lệ không cao. Chúng ta thường thấy các khẩu hiệu treo trên đường phố hoặc viết chữ to ở bảng đầu làng, đầu ngõ tuyên truyền việc đóng thuế, nhưng hầu như chỉ nói về nghĩa vụ (có khi thêm vinh dự) của người dân khi nộp thuế; hiếm khi thấy khẩu hiệu giúp cho dân hiểu rõ đóng thuế là nuôi Nhà nước. Gần đây, một số cửa hàng lớn, khách sạn, nhà hàng, công ty dịch vụ... ghi rõ trong phiếu thu tiền phần giá hàng hóa, dịch vụ và phần thuế mà người tiêu dùng phải nộp. Tuy nhiên đối với đông đảo nhân dân, nhất là ở nông thôn, không mấy người biết rằng khi mua hàng (từ hàng tiêu dùng đến máy móc, vật liệu... sản xuất trong nước và nhập khẩu), người mua đã đóng thuế cho Nhà nước trong giá mua hàng.
Không chỉ người dân thường mà không ít người trong bộ máy công quyền cũng không ý thức được rằng mình được dân nuôi. Ở nước ta mỗi khi người dân có được thành tựu, hoặc được được hưởng một lợi ích nào đó thì thường nói là ơn Đảng, ơn Chính phủ.
Chúng ta biết rằng một chủ trương, chính sách đúng của Đảng và Nhà nước được tổ chức thực hiện tốt thì đem lại lợi ích cho dân. Muốn hoạch định đúng chủ trương, chính sách, phải dựa vào trí tuệ, kinh nghiệm và ý kiến đóng góp của dân. Trong mọi lĩnh vực hoạt động, nhất là về kinh tế, xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, dù quan trọng đến đâu cũng chỉ vạch hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của dân, không thể trực tiếp tạo ra kết quả cụ thể trong sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nếu không có sự đồng thuận và tích cực thực hiện của dân.
Như vậy, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách phải do nỗ lực hoạt động của dân. Ngay cả khi Nhà nước đầu tư trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, doanh nghiệp của Nhà nước để cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho người dân, thì nhà nước cũng sử dụng các nguồn lực của dân để làm việc đó, và trong nhiều trường hợp, chất lượng, hiệu quả lại không bằng người dân tự tổ chức làm.
Về vai trò quyết định của dân đối với sự phát triển của đất nước, mọi người đều công nhận và thường xuyên nhắc tới. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động thực tế có không ít trường hợp điều đó bị lãng quên mà chỉ thấy sự lãnh đạo và quản lý của Đảng, của Nhà nước.
Một ví dụ: báo cáo trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ đầu tháng 5 vừa qua về tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2009 có câu mở đầu như sau: “Nhờ sự chỉ đạo tập trung quyết liệt của Chính phủ và sự nố lực của các ngành, các cấp, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong 4 tháng có thấp hơn cùng kỳ năm trước, nhưng đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực”. Như vậy, những cố gắng của dân không được tính đến. Cách suy nghĩ này cũng khá phổ biến trong nhiều cơ quan và cả trên báo chí.
Chúng ta biết rằng khi nền kinh tế đứng trước nguy cơ suy giảm và lạm phát do những yếu kém bên trong và chịu tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính - kinh tế trên thế giới, thì dân và doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân, là người gặp nhiều khó khăn nhất, phải vật lộn rất gay go mới có thể tồn tại và phát triển. Những chính sách và biện pháp tình thế của Chính phủ nếu đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tế thì chỉ có thể làm giảm bớt khó khăn và tạo thêm điều kiện cho việc làm ăn của dân và doanh nghiệp; người dân và doanh nghiệp phải vận động tự thân là chính. Đây chính là tiềm năng to lớn nhất cho sự phát triển.
Mọi người đều đánh giá nền nông nghiệp và nông dân nước ta trong năm 2008 và đầu năm 2009 đã duy trì tốt đà tăng trưởng, góp phần quan trọng ổn định tình hình kinh tế, tạo thuận lợi cho các ngành và lĩnh vực hoạt động khác. Trong thành tựu của nông nghiệp, có phần nhờ tác động của các chính sách và đầu tư từ nhiều năm nay của Nhà nước; song nói riêng về các biện pháp kích cầu để vượt qua khó khăn, ngăn chặn suy giảm kinh tế thì đến tháng 4 năm nay Chính phủ mới có chính sách ưu đãi đối với nông dân và việc thực hiện còn phải có thời gian. Vì vậy đối với một số chuyển biến tích cực của nền kinh tế trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nếu chỉ thấy “sự chỉ đạo tập trung kiên quyết của Chính phủ và sự nỗ lực của các ngành, các cấp” thì đó là cách nhìn rất phiến diện vì không đánh giá đúng những cố gắng rất to lớn của dân và doanh nghiệp.
Nhận thức sâu sắc vai trò và tiềm năng to lớn của dân là nền tảng về tư duy để hoạch định chính sách đổi mới và phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã nêu rõ: “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân”. Để thực hiện yêu cầu đó, câu hỏi: “Ai nuôi Nhà nước và cả hệ thống chính trị ở Việt Nam?” cần được mọi người trong bộ máy công quyền cũng như mọi người dân trả lời rõ và ghi nhớ trong lòng.

Thursday, 7 July 2016

656.Formosa Hà Tĩnh: phát thải “siêu độc”, quản lý “chưa tiên liệu”?

Nguồn: Kinh Tế Sài Gòn.

 Formosa Hà Tĩnh: phát thải “siêu độc”, quản lý “chưa tiên liệu”?

Đăng Nguyễn
Thứ Năm,  7/7/2016, 07:41 (GMT+7)

 (TBKTSG) - Trả lời báo chí tại cuộc họp báo ngày 30-6-2016, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) Trần Hồng Hà nói rằng: “Về quy chuẩn môi trường, trước đây vì nhiều lý do nên một số ngành ô nhiễm được ưu tiên. Ví dụ trong ngành luyện kim, luyện thép... nếu để tiêu chuẩn cao sẽ khó khả thi nên phải hạ thấp hơn chuẩn bình thường để ngành đó tồn tại, phát triển” (VnExpress). Vậy “trước đây”, hay nói đúng hơn là cho đến thời điểm này, các vấn đề môi trường của ngành thép được quản lý như thế nào để bây giờ Formosa Hà Tĩnh gây ra thảm họa môi trường ven biển miền Trung, đến nỗi Bộ trưởng Bộ TN-MT Trần Hồng Hà phải thừa nhận: “Có thể nói ta chưa tiên liệu được các chất thải của Formosa” (Tuổi Trẻ)?


Phát thải “siêu độc” của Formosa
Thật ra, từ năm 2009, Cục Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường (Tổng cục Môi trường, Bộ TN-MT) đã cho xuất bản tài liệu “Hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án luyện gang thép” (Hướng dẫn ĐTM). Hướng dẫn ĐTM này gồm lời nói đầu và 8 chương, đưa ra các phân tích chi tiết về công nghệ luyện gang thép, các tác động môi trường, các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường, chương trình quản lý và giám sát môi trường, tham vấn ý kiến cộng đồng và cuối cùng là khung hướng dẫn kỹ thuật lập báo cáo ĐTM dự án đầu tư xây dựng nhà máy luyện gang thép.
Hướng dẫn ĐTM này đã nêu rất rõ “...trong quá trình xây dựng và vận hành các dự án đầu tư xây dựng nhà máy luyện gang thép sẽ gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường. Vì vậy cần phải tiến hành đánh giá tác động môi trường cho dự án, nhằm mục đích phân tích, đánh giá và dự báo những tác động có lợi và có hại, trực tiếp và gián tiếp, trước mặt và lâu dài mà các hoạt động của dự án có thể ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường khu vực, để từ đó xây dựng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời giúp cho cơ quan chủ đầu tư dự án có những quyết định toàn diện và đúng đắn về các giải pháp phát triển dự án gắn với bảo vệ môi trường”. Với những gì được viết ra một cách chi tiết trong hướng dẫn này, thật khó hiểu với sự thừa nhận của Bộ trưởng Bộ TN-MT Trần Hồng Hà ở trên.
Cân bằng nguyên vật liệu và năng lượng để sản xuất ra 1 tấn thép thô từ nhà máy liên hợp gang thép như của Formosa mà Bộ TN-MT hướng dẫn (xem hình).
Theo hướng dẫn ĐTM này để tính toán với công suất giai đoạn 1 là 15 triệu tấn thép/năm, Formosa Hà Tĩnh sẽ thải ra môi trường với tải lượng các chất ô nhiễm (xem bảng).
Đó quả là những con số khủng khiếp cho dù xét theo bất cứ nguồn ô nhiễm nào: khí thải (gần 36 triệu tấn/năm), nước thải (trên 28.000 tấn/năm các chất ô nhiễm) hay chất thải rắn (gần 9 triệu tấn/năm). Tất nhiên đây là tải lượng ô nhiễm trước khi được xử lý bằng các hệ thống kiểm soát ô nhiễm không khí, xử lý nước thải và quản lý chất thải rắn.
Một điều đáng lưu ý, đó là tổng lượng phenol và xyanua trong nước thải của Formosa trước khi xử lý là 120 tấn/năm hay 0,36 tấn/ngày (cho rằng nhà máy vận hành 330 ngày/năm), tính theo tài liệu hướng dẫn ĐTM của Bộ TN-MT ở trên.
Như vậy, tính ra trong năm ngày nhà máy mất điện và không thể xử lý được nước thải, tổng lượng phenol và xyanua đã thải ra biển Vũng Áng mà Bộ TN-MT công bố đó là nguyên nhân chính gây ra thảm họa cá chết hàng loạt từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên  - Huế trong tháng 4-2016 vừa qua, là 1,82 tấn (giả định chạy theo công suất của giai đoạn 1). “Chỉ” 1,82 tấn phenol và xyanua trong năm ngày, mà phá hủy gần như toàn bộ rạn san hô trên 200 cây số bờ biển miển Trung mà có khi cần đến cả trăm năm để phục hồi. “Chỉ” 1,82 tấn phenol và xyanua trong năm ngày, mà hàng triệu ngư dân miền Trung điêu đứng vì mất ngư trường trong vài tháng qua và sẽ còn khó khăn không biết đến bao giờ.
Nếu tính theo giấy phép xả thải mà Formosa đã được cấp với lưu lượng 45.000 mét khối/ngày, chỉ riêng với nồng độ phenol hay xyanua cho phép đều là 0,585 mg/l, thì tổng lượng phenol và xyanua sẽ thải ra biển Vũng Áng trong điều kiện Formosa vận hành ổn định và xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép sẽ là 17,37 tấn/năm, tức là lớn gấp 9,5 lần so với lượng thải của năm ngày gây ra thảm họa.
Vậy liệu rằng hệ sinh thái biển miền Trung kia, vốn đã bị phá hủy gần như toàn bộ “chỉ” với 1,82 tấn phenol và xyanua, có tiếp tục chịu đựng nổi trong 70 năm tới khi còn tiếp nhận hàng năm một số lượng phenol và xyanua “ổn định” là 17,37 tấn/năm, đó là chưa kể Formosa còn dự kiến nâng công suất nhà máy lên 1,5 lần, đạt 22 triệu tấn thép/năm cũng sẽ dẫn đến lượng phát thải gấp 1,5 lần như thế?
Xem ra Bộ TN-MT cần phải nỗ lực nhiều để có bộ quy chuẩn nước thải cũng như giấy phép xả thải phù hợp cho Formosa Hà Tĩnh, thay cho bộ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất gang thép QCVN 52:2013/BTNMT đang được áp dụng và “chưa tiên liệu được các chất thải của Formosa” với chỉ 12 thông số.
Để tham khảo, Hướng dẫn về môi trường, sức khỏe và an toàn của Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) áp dụng cho nước thải của các nhà máy sản xuất thép liên hợp như Formosa quy định đến 25 thông số, trong đó có rất nhiều thông số về kim loại nặng mà QCVN 52:2013/BTNMT không quy định.
Sau nước thải là khí thải
Dư luận chưa chú ý đến nhiều về khí thải từ Formosa Hà Tĩnh, cho dù đó cũng là một nguồn ô nhiễm cực lớn, có lẽ do khu liên hợp gang thép này chưa vận hành toàn bộ dây chuyền sản xuất. Theo tính toán ở trên, chỉ riêng phát thải CO2 của Formosa Hà Tĩnh đã đạt đến 34,5 triệu tấn/năm, so với tổng lượng phát thải khí nhà kính năm 2020 của tất cả các ngành sản xuất và xây dựng là 68,3 triệu tấn/năm (không kể ngành công nghiệp sản xuất năng lượng), theo báo cáo dự báo phát thải khí nhà kính của Bộ TN-MT năm 2014.
Nghĩa là, chỉ riêng khu liên hợp gang thép Formosa Hà Tĩnh, phát thải khí nhà kính đã chiếm đến trên 50,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong toàn bộ các ngành sản xuất và xây dựng tại Việt Nam! Ta biết rằng Việt Nam là một trong những nước dễ bị tổn thương nhất thế giới do biến đổi khí hậu, và những thảm họa do thiên tai như hạn hán, lũ lụt và những hiện tượng thời tiết cực đoan khác xảy ra khắp cả nước trong thời gian qua với cường độ tác hại ngày càng lớn cũng như tần suất xảy ra ngày càng dày đặc đã chứng minh điều đó. Vậy thì không rõ khi vận hành toàn bộ dây chuyền sản xuất, Formosa Hà Tĩnh sẽ tiếp tục góp phần làm nghiêm trọng thêm tác động do biến đổi khí hậu đến mức nào?
Cùng với CO2 còn là những chất ô nhiễm khác độc hại không kém, đó là bụi và khí kim loại gần 1 triệu tấn/năm có nguy cơ rất cao gây ra các bệnh về đường hô hấp, trong đó có ung thư phổi. Ngoài ra, SO2 và NOx là những khí gây ra mưa axit, làm suy giảm chất lượng đất, chất lượng nước, giảm năng suất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, cũng đạt đến lượng phát thải theo thứ tự là 33.000 tấn/năm và 34.500 tấn/năm.
Tương tự nước thải, khí thải cũng có quy định riêng, đó là Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép QCVN 51:2013/BTNMT. Quy chuẩn này quy định 11 thông số cho khí thải sản xuất thép nói chung, và 11 thông số cho khí thải sản xuất cốc (luyện cốc).
Trong khi đó, hướng dẫn về môi trường, sức khỏe và an toàn của IFC áp dụng cho khí thải của các nhà máy sản xuất thép liên hợp như Formosa quy định chung đến 18 thông số, không phân biệt quy trình sản xuất.
Có hai điều đáng nói về QCVN 51:2013/BTNMT, đó là quy định chỉ tiêu dioxin/furan chỉ được áp dụng từ ngày 1-1-2017, và nồng độ bụi cho phép cao gấp 2-5 lần so với hướng dẫn của IFC (100 mg/Nm3 so với 20-50 mg/Nm3, trong đó IFC đề nghị áp dụng 20 mg/Nm3 khi trong bụi phát hiện có các kim loại độc hại). Dioxin, thành phần chính của chất độc màu da cam mà không lạ gì với người dân Việt Nam, là tác nhân gây chết người, ung thư và để lại nhiều di chứng về sức khỏe cho nhiều thế hệ; Dioxin/Furan là những hợp chất có độc tính cao nhất được biết trong khoa học cho đến nay.
Trong khi đó, bụi phát sinh từ các ống khói nhà máy liên hợp sản xuất thép có tính chất là bụi lơ lửng (SPM), trong đó hàm chứa rất nhiều các kim loại nặng độc hại khác nhau như asen, thủy ngân, cadmi, chì, niken, crôm, kẽm, mangan... Vậy thì, dioxin/furan độc hại như thế, sao chỉ yêu cầu áp dụng từ ngày 1-1-2017? Bụi lơ lửng phức tạp với nhiều kim loại nặng độc hại như thế, dựa vào đâu để cho phép thải với nồng độ quá cao so với tiêu chuẩn quốc tế?
Ngoài ra, hiện nay giấy phép xả thải chỉ mới được áp dụng cho nước thải và chất thải công nghiệp, chất thải nguy hại, còn giấy phép xả thải cho khí thải chỉ được áp dụng sau ngày 1-1-2018, theo quy định trong Nghị định số 38/2015/NĐ-CP. Với nguy cơ ô nhiễm do khí thải của Formosa Hà Tĩnh như hiện nay, rõ ràng không có lý do gì phải trì hoãn việc áp dụng giấy phép xả thải cho khí thải đến sau ngày 1-1-2018. Việc áp dụng giấy phép xả thải cho khí thải càng sớm càng tốt sẽ góp phần ngăn ngừa thảm họa môi trường do ô nhiễm không khí từ Formosa Hà Tĩnh có thể gây ra cho đồng bào miền Trung.
Kiểm soát ô nhiễm ở Formosa, cần đầu tư 1 tỉ đô la Mỹ!
Theo báo cáo nghiên cứu “Modelling and Analysis of Environmental Pollution in an integrated steel plant” (Mô hình hóa và phân tích ô nhiễm môi trường của một nhà máy liên hợp gang thép) do Giáo sư K. Vizayakumar đến từ Indian Institute of Technology (Viện Công nghệ Ấn Độ) thực hiện năm 2001, thống kê cho thấy để các hệ thống kiểm soát ô nhiễm trong các dự án liên hợp gang thép hoạt động thực sự hiệu quả, chi phí đầu tư cho các hệ thống này chiếm đến 10% tổng vốn đầu tư dự án. Nghĩa là với quy mô đầu tư 10 tỉ đô la Mỹ của dự án Formosa Hà Tĩnh, chi phí để đầu tư cho các hệ thống xử lý khí thải, xử lý nước thải và quản lý chất thải rắn tại đây cần đến 1 tỉ đô la Mỹ.
Trong khi đó, hệ thống xử lý nước thải 45.000 mét khối/ngày mà Formosa tự cho là hiện đại chỉ tốn có 45 triệu đô la Mỹ, chưa bằng 1/22 con số 1 tỉ đô la Mỹ nhu cầu đầu tư ở trên. Vậy liệu rằng Formosa có dành đến 955 triệu đô la Mỹ còn lại để đầu tư vào hệ thống xử lý khí thải và quản lý chất thải rắn, để đảm bảo tuân thủ về môi trường theo các chuẩn mực quốc tế? Hay “nếu để tiêu chuẩn cao sẽ khó khả thi nên phải hạ thấp hơn chuẩn bình thường để ngành đó tồn tại, phát triển”, nên Formosa đã và sẽ còn tiếp tục lợi dụng để rồi môi trường của Việt Nam sẽ bị ô nhiễm, người dân của Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị trả giá?
Chỉ có Bộ TN-MT với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp và cao nhất trong Chính phủ về các lĩnh vực môi trường, tài nguyên nước, biến đổi khí hậu... mới có thể trả lời những câu hỏi đó.

Xem thêm:
Formosa cam kết bồi thường 11.500 tỉ đồng vì gây ra vụ cá chết
Thủ tướng yêu cầu giải trình vụ cấp phép xả thải Formosa

Thursday, 12 May 2016

655.Người việt nam hèn hạ


Bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa. Bởi chúng ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề.

Ảnh tác giả trên trang blog cá nhân. (blog hanwonders)

Cách đây đã lâu, tôi đọc“người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Ðài Loan), chưa bàn tới hay/dở/ đúng/ sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn như “Người Mỹ xấu xí,” ”Người Nhật Bản xấu xí,” rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,...” ...nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ... Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?

Một đất nước mà hơn phân nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng mình có quay cóp một cách hoàn toàn không có chút tự trọng (đó là được hỏi, còn báo chí không cần hỏi vẫn có những hình ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy thì thi cái gì? Thi xem ai quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó còn có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay không thi thì năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su-Ju” của nó là nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đình, nhà trường, xã hội - những nền tảng đã cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận được với Su-Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung hô! Chính là những đứa trẻ sẵn lòng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế... trước thần tượng. Một dân tộc gì đã sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế?

Con nít nó học cha anh mà ra, chúng ta đã nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao? Ðừng ai đổ thừa cho ai. Vì trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xã hội, xã hội đổ cho cha mẹ... nhà trường. Tóm lại, đừng đổ thừa nữa. Hãy biết hốt về mình đi! Tất cả chúng ta là người lớn, chúng ta đều có lỗi.

Bởi người lớn có hơn gì? Một xã hội mà người ta đang sẵn lòng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc bất kể lương tri. Làm quan thì chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại bang để duy trì sự thống trị trước nhân dân.
Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường... trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có,... nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm.” Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình.” Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình? Ðơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân ... gia đình nó- nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này? Ðừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động.”

Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,...

Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa?

Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức:Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh... ức hiếp bên dưới.

Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?!

Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,... làm “đầy tớ” của nhân dân!

Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài Gòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan.

Bọn công bộc đó đã đẩy 2 mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa thân ở giữa đường để đòi lại công bằng. Vì trong tay họ còn có gì để chống lại chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai thèm đoái tới?

Bọn công bộc đó đã đẩy đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công quyền vì không còn sức để chịu đựng chúng...

Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi. Ðáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội - thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.

Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,... không còn một lựa chọn nào khác. Không biết làm gì khác, không có phản ứng gì khác! Vì chúng ta lương thiện.

Kẻ không lương thiện có những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như một sự kết tinh cao cấp hơn của một xã hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.

Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.

Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật.

Tôi đọc tin một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và chút ít tài sản.

Tôi đọc tin bọn chủ... lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng.

Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt.

Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp!... Còn rất nhiều tin.

Một dân tộc gì mà độc ác và hèn hạ thế? Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó.

Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc.”

Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói mình đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,...” một cách đúng nghĩa. Vì hãy quên những hình tượng cách mạng cao đẹp trong văn chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Ðó không phải là văn chương, nó là thuốc pháo, tìm cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết... chết. Không hơn không kém.

Các bạn có tìm kiếm giống tôi không? Và các bạn có tìm thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta chỉ có 3 loại:

- Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.

- Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?

- Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!

Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.

Còn những thứ hổ lốn lai căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, vì đó là nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu mình đi, không cần suy nghĩ nữa làm gì cho mệt óc.

Vậy cái gì đã gây nên nông nỗi? Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản.

Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng sản. Nhưng cộng sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, thì chúng ta cũng tệ không kém!

Nghe nói cụ Tản Ðà có câu:

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn!
Cho nên quân ấy mới làm quan.


Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại.

Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế?

Ngoài sự cấu kết quyền lực-quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa?

Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đã hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ, ...Vì những người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,... thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì mà họ không dám làm?

Còn những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng mình, giúp đỡ mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa vào đâu để tìm lại niềm lạc quan mà sống? Mà tranh đấu để tự tìm lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đã ban cho mỗi chúng ta?

Tôi có cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất - nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không?

Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta. Chúng ta - những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ mình lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách - nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực - một nền nghệ thuật có thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng.

Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói: Ðời chúng mày chỉ cần độc lập-tự do-hạnh phúc.

Chúng ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản gì?

Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân mình, một con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những gì mà một con người có lương tri cần phải hành động.

Bạn có đang tự hào vì mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu trĩ mang trong mình một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,...” đã từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à? Ta thắng Mỹ để có một xã hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi... Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm nhục?

Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Ðông,” “bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn,”... để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Ðĩ” chưa từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?

Còn dân việt nam thì sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa.

Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.

Bổ sung: Sau khi bài này được upload, tôi nhận được khá nhiều comments và cả message. Không biết phải đánh giá như thế nào về những comments hỏi ngược lại tôi với một thái độ khinh khỉnh, qua nhiều câu chữ khác nhau, nhưng đại khái cùng 1ý: “Vậy bạn có hèn không?” He he... Tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại 1 điều, suốt cả bài viết, tôi không gọi những người hèn là “các bạn,” tôi gọi là “chúng ta.” Như vậy có dễ hiểu hơn chưa nhỉ?

Tôi không thích tự nhận hay gán ghép. Tôi chỉ nói lên những suy nghĩ của mình, còn đánh giá tôi hay đánh giá chính mình, các bạn cứ tự làm lấy. Thiết nghĩ, đâu cần phải tranh luận chuyện ai hèn, ai không hèn ở đây! Biết hay không biết mới là quan trọng. Mà cái sự khổ sở để đi từ cái “không biết/chưa biết” đến cái “biết” nó sẽ là một quá trình gian nan mà mỗi người phải tự thân trải nghiệm. Không ai giúp ai được đâu. Và tôi hiểu, cái “biết” của tôi nó cũng chỉ giới hạn trong tầm nhân sinh quan nhỏ bé của cá nhân tôi mà thôi. Còn bạn, hãy tiếp tục giữ lấy niềm lạc quan của bạn. Con cừu vẫn có được niềm hạnh phúc mỗi ngày được gặm cỏ non, uống nước suối, ngắm bầu trời xanh, chờ đến ngày xẻ thịt mà! Ðúng không? Hạnh phúc vẫn khắp quanh ta! Những con cừu không biết “tự sướng,” không biết “thủ dâm tinh thần” thì quả thực là ngu còn hơn... cừu! He he...

Bổ sung tiếp: “....Ông bảo xã hội nào cũng có những điều bẩn thỉu. Tôi công nhận điều ấy. Nhưng xã hội bẩn thỉu nhất ông có biết là xã hội nào không? Là xã hội mà thằng ăn cắp không cho rằng nó phạm pháp, nó đang làm điều xấu, người lương thiện thì run sợ, thằng bất lương lại coi việc nó làm là bình thường và kẻ vô liêm sỉ như ông thì vênh vang tự đắc: ta là số đông. Chính là xã hội này đây....” (trích comment của khongnoibiet).

Tự Do Phải Tranh Ðấu Bằng Xương Máu Và Cả Tính Mạng

Bonus:


  

Tuesday, 26 April 2016

654. ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH ?


Nguồn: FB

ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH ?

Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...

Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...
Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...
Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...
TRẦN THỊ LAM
Trường PTTH chuyên Hà Tĩnh.


Sunday, 17 April 2016

653. Mười năm qua gió thổi đồi tây...




Năm 2016 là năm đặc biệt với tôi vì nó đánh dấu 10 năm tôi trở về Việt Nam sau hơn mười mấy năm sống ở nước ngoài và cũng là năm tôi qua tuổi 40, tuổi không còn trẻ nữa. Bài viết này là quan sát rất cá nhân của tôi, (và không có tính khoa học) về Việt Nam trong 10 năm qua dưới con mắt của một người trở về, từ dân nghiên cứu chuyển sang làm kinh doanh, nhân dịp sau đại hội Đảng và kết thúc một nhiệm kỳ của chính phủ.
Với tôi, Việt Nam của thập kỷ 2006-2015 được khái quát bằng những điểm chính sau: 1) Sự lũng đoạn trầm trọng của các công ty tư nhân trong việc cấu kết với các quan chức nhà nước, cái mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi là “lợi ích nhóm”, còn kinh tế học thì gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (cronysm); 2) Về phía khu vực công, sự “đục khoét ngân sách” hay “đào mỏ ngân sách” được đẩy lên đến đỉnh điểm; 3) Thập kỷ này đánh dấu sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục của nước nhà. 4) Mạng xã hội và truyền thông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính trị Việt Nam; 5) Và cuối cùng, làn sóng người có tiền và kiến thức ra đi ào ạt, lại một cuộc di cư nữa.
Vấn đề đầu tiên là sự lũng đoạn trầm trọng của các tập đoàn tư nhân. Chưa bao giờ mà chủ nghĩa tư bản thân hữu “cronyism” ở Việt Nam lại biểu hiện rõ như thế. Chủ nghĩa tư bản thân hữu hay “nhóm lợi ích” ở đây là sự kết hợp giữa công ty tư nhân và quan chức nhà nước trong việc giành những đặc quyền đặc lợi để khai thác một nguồn lực gì đó trên cơ chế bất bình đẳng, không cạnh tranh lành mạnh. Câu nói mà bạn sẽ nghe nhiều nhất trong 10 năm vừa qua sẽ là “chỗ này là của anh A, chỗ kia là của chị B”. Dường như không có cuộc chơi kinh doanh lớn nào ở Việt Nam mà lại không có sự “bảo kê” của một quan chức nào đó. Mọi quan hệ kinh tế sẽ được thay bởi các quan hệ chằng chịt giữa chính trị và doanh nghiệp.
Điểm nguy hiểm nhất của chủ nghĩa tư bản thân hữu là việc nó tạo ra một cuộc chơi bất bình đẳng mà các công ty tư nhân khác không được cơ hội tham gia. Qua đó các công ty “nhóm lợi ích” được độc quyền khai thác nguồn tài nguyên hay một hoạt động nào đó, và thường là gây thiệt hại cho người dùng. Trong tài chính, đây là cuộc chơi sử dụng quyền lực để mua lại các doanh nghiệp theo ý của mình. Trong giáo dục, đó là việc trao cho một công ty giáo dục độc quyền cung cấp một dịch vụ, thiết bị mà học sinh, phụ huynh phải mua mà không có sự lựa chọn khác. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng, thì sử dụng quan hệ chính trị để lấy các hợp đồng thầu lớn mà không thông qua đấu thầu công bằng và minh bạch. Trong bất động sản, đó là việc thay đổi quy hoạch tạo lợi thế cho doanh nghiệp hoặc việc lấy các vị trí đắc địa qua những mối quan hệ bất bình đẳng.
Thay vì phát triển theo một hướng minh bạch có lợi về dài hạn, Việt Nam dường như đang trượt ngã trên con đường phát triển của những nước mà chủ nghĩa tư bản thân hữu đang lũng đoạn mà chưa có lối ra như Philippine, các nước Mỹ Latin, Liên bang Nga, Trung Quốc. Và rồi sẽ có lúc nếu không kiểm soát sớm thì doanh nghiệp sẽ là người điều khiển cuộc chơi chính trị kinh tế, là kẻ tống người tiêu dùng vào tù, là kẻ bịt mồm nhà báo, v.v , và cuối cùng là thế lực thực sự lũng đoạn nền chính trị, đưa người này lên, đưa kẻ khác xuống. Khi chính trị bị định đoạt bằng đồng tiền và quan hệ thì chính trị đã trở thành “công cụ” của những tay chơi tư bản lớn. Và khi đó, nền kinh tế tại Việt Nam sẽ trở thành hiện thân “chủ nghĩa tư bản” thời kỳ “mông muội” và đáng “ghê tởm”nhất chứ không phải là chủ nghĩa xã hội như ước vọng của các lãnh đạo Đảng CS.
Vấn đề thứ hai, với tôi, là việc “đào mỏ ngân sách” (budget mining) (mượn lời của TS Vinh du Tran). Thập kỷ vừa qua tại Việt Nam được đánh dấu bằng việc “vung tay quá trán” của chính quyền địa phương. Chưa có thời kỳ nào mà Việt Nam lại lắm công trình chùa chiền, công trình kỷ niệm, các dự án khu hành chính ngốn hàng trăm, hàng ngàn tỷ như những năm vừa qua. Các địa phương thi nhau đục khoét ngân sách thông qua các dự án công. Không có cách nào rút tiền ngân sách dễ dàng như rút tiền qua dự án công. Một công trình, khu tượng đài có giá trị đầu tư hàng trăm tỷ sẽ được giao cho một công ty xây dựng “thân hữu”. Công ty xây dựng đó sẽ trở thành nhà thầu chính và qua đó có thể chia sẻ lại quyền lợi cho những người có quyết định.
Điểm đáng kinh ngạc và phẫn nộ là trong khi ai cũng biết mười mươi sự lãng phí và sự rút tiền trắng trợn qua những dự án này thì chính quyền trung ương dường như lại không thể áp đặt và quyết đoán ngăn chặn những quyết định này. Tại sao các địa phương lại có thể xin ngân sách nhà nước một cách tùy tiện như vậy. Sự nghịch lý này hoàn toàn có thể giải thích được. Chính quyền trung ương sẽ được đánh giá tín nhiệm từ hai nguồn: a) các ủy viên trung ương, mà đại diện là lãnh đạo các tỉnh/chính quyền địa phương; b) đánh giá tín nhiệm từ quốc hội. Tuy nhiên, ủy viên trung ương mới là người thực sự bầu ra bộ chính trị, thủ tướng, và thực tế nội các. Trong khi đó, lá phiếu tín nhiệm của quốc hội chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà không có hình phạt. Do đó, dường như phải có sự thỏa hiệp giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương trong việc đổi lấy lá phiểu ủng hộ, đặc biệt là giữa nhiệm kỳ. Do vậy, để tránh việc đầu tư vung vãi như trên thì cần phải thiết kế một cơ chế quy trách nhiệm cho người lãnh đạo chính quyền địa phương và bảo đảm được tính độc lập trong việc ra quyết định chi ngân sách của người đứng đầu chính quyền trung ương.
Từ những năm qua, mạng xã hội và truyền thông đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị ở VN. Xã hội Việt Nam 10 năm qua đã không còn là xã hội thụ động về truyền thông nữa. Sự phát triển của mạng xã hội đã cho phép người dân tham gia vào đời sống chính trị kinh tế xã hội một cách chủ động hơn rất nhiều. Mạng xã hội đã chính thức trở thành nơi để xả những uất ức phẫn nộ và bức bối của dân chúng. Nếu như ở nước ngoài, người dân phản ứng với thay đổi bằng cách biểu tình thì ở Việt Nam, người ta sẽ phản ứng bằng cách “biểu tình trên mạng”. Mỗi một sự kiện có ảnh hưởng lớn đến đời sống đều được đem ra bàn luận sôi nổi trên mạng xã hội. Ảnh hưởng của mạng xã hội lớn đến mức có rất nhiều vụ việc sau đó bị thay đổi do dư luận trên mạng xã hội đã dẫn dắt truyền thông chính thống, ví dụ như vụ chặt cây xanh, máy tính bảng, tiếng Anh tích hợp, thực phẩm bẩn .v.v.
Quay lại chuyện chính trị và truyền thông, dường như truyền thông và mạng xã hội đã loại thẳng tay các lãnh đạo đương nhiệm của Bộ GDĐT và Bộ Y tế, trong khi trái tim của công luận dường như “tình trong như đã” với nguyên Bộ trưởng Bộ Giao Thông Đinh La Thăng. Xét công bằng mà nói thì hai Bộ Y tế và Bộ GD ĐT có những nỗ lực không hề nhỏ trong 5 năm vừa qua. Tuy nhiên nhìn cách họ ứng xử với truyền thông thì thấy hai Bộ này còn phải thay đổi rất nhiều. Bộ Y tế ứng xử với truyền thông thì hết sức vụng về, luôn đi chậm một bước, tuyên bố rất ngô nghê. Còn Bộ Giáo Dục thì luôn có vẻ ngạo mạn, hành xử đầy “cha chú” với truyền thông và công luận với những chính sách và phát ngôn gây sốc như dự án 35 nghìn tỷ, cuộc thi đại học như “đánh bạc”, và chả bao giờ có lời giải thích cầu thị đến nơi đến chốn cả. Trong khi đó, chỉ một hình ảnh ông Đinh La Thăng đu dây xuống thị sát vụ tai nạn cũng đã đủ đốn ngã hàng triệu con tim của người dân, và kế đó là việc ông là người duy nhất được bầu thẳng vào Bộ Chính Trị mà không có sự giới thiệu từ Bộ Chính Trị trước đó.
Đối với tôi, người từng tham gia rất sâu vào giáo dục và cũng là người có hai đứa con đang độ tuổi đi học cấp 1 và cấp 2 ở Việt Nam, giáo dục là điều tôi quan tâm nhất. Với tôi, 10 năm qua chứng kiến sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục Việt Nam. Sang thế kỷ 21 rồi mà giáo trình phổ thông và đại học của Việt Nam vẫn vô cùng lạc hậu hàng chục năm so với nước ngoài. Hàng trăm vụ scandal liên quan đến nội dung giáo trình phổ thông đã xảy ra; những gì con tôi được học không khác gì những gì cha tôi và tôi đã từng được học cách đây hơn 30-50 năm. Người thầy vẫn phải dạy một cách giáo điều, khuôn mẫu, ngăn cản sáng tạo. Vẫn những câu chuyện lịch sử áp đặt hoặc không được nhắc đến. Những cuộc cải cách giáo trình mãi không biết đến bao giờ mới xong (trong khi đó nếu Bộ GD ĐT trao quyền cho khối tư nhân thì có khi chỉ 1 năm đã có tất cả giáo trình đầy đủ). Và vẫn những loay hoay không lối thoát về chiến lược giáo dục.
Sắp hội nhập AEC và TPP đến nơi rồi mà hơn 80% học sinh thi tốt nghiệp phổ thông trung học có điểm tiếng Anh dưới 5, điểm trung bình. Ấy thế mà những nhà quản lý giáo dục vẫn “bình chân như vại”. Giáo dục song ngữ, cụ thể là tiếng Anh, vẫn chưa bao giờ được coi là quan trọng nhất. Việc dạy Toán và Khoa học, nền tảng giáo dục cơ bản cho một đất nước “sáng tạo” lại luôn được dạy một cách vô cùng lý thuyết và thiếu tính ứng dụng cao.
Cuộc khủng hoảng năm 2008 kéo dài với những bấp bênh bất ổn của nền kinh tế đã dẫn đến một làn sóng ngầm nhưng rất rõ ràng là những ai có điều kiện đều cảm thấy cần phải mua “bảo hiểm” cho gia đình mình bằng tấm hộ chiếu của một đất nước khác. Nếu như năm 2006 khi tôi trở về, câu chuyện trong giới doanh nghiệp và tài chính là đầu tư vào đâu, thì những năm gần đây, câu chuyện thường trực mà tôi nghe là họ sẽ di cư đi đâu, chuyển tiền ra nước ngoài thế nào. Tại sau người ta lại bỏ nước ra đi? Người ta bỏ nước ra đi vì họ thấy quá nhiều bất ổn: kinh tế bấp bênh, ô nhiêm môi trường trầm trọng, thực phẩm độc hại tràn lan, Và đặc biệt, là một nền giáo dục quá lạc hậu không thể chuẩn bị cho con cái họ một tương lai trước một thế giới đầy bất định.
Cứ 10 chủ doanh nghiệp mà tôi gặp thì ít nhất 3-4 người đã có thẻ thường trú nhân ở một nước tư bản, số còn lại thì hơn một nửa cũng đang ngấp nghé chuẩn bị. Sự khác biệt lớn nhất của cuộc di cư lần này so với những cuộc di cư khác là cuộc di cư lần này không hề vì ý thức hệ. Cuộc di cư lần này được những người tinh hoa nhất, thành đạt nhất dẫn đầu, và được chuẩn bị vô cùng bài bản và công khai. Họ ra đi mang theo số lượng tiền bạc, trí tuệ khổng lồ. Một cuộc chảy máu chất xám và tiền lớn hơn tất cả những cuộc di cư trước cộng lại. (Còn với tôi, nếu tôi có phải bỏ nước ra đi, thì lý do duy nhất là tôi không muốn con tôi sống với những điều dối trá đang diễn ra.)
Sang năm 2016, tôi thấy hơi lạc quan với những động thái mà Đảng CS đưa ra. Dường như những nhà lãnh đạo đã cảm thấy một phần sức nóng bức xúc của công luận. Tham nhũng được coi là quốc nạn, những vụ bổ nhiệm lãnh đạo cao cấp dường như khá tích cực. Những vụ luân chuyển cán bộ cấp thành ủy đã mang hơi hướng của việc cải cách. Một điểm tích cực khác là dàn lãnh đạo khá trẻ của Đảng cho dù họ có là con ông cháu cha hay chăng nữa. Truyền thông và mạng xã hội được coi trọng hơn rất nhiều. Quan chức giờ đã biết nhìn và hành động theo phản ứng của dư luận, cho dù những việc đó có là “giả tạo” thì việc biết để ý đến phản ứng của công luận đã là một bước tiến bộ rất đáng kể.
Tôi mong rằng sang thập kỷ mới, chính phủ Việt Nam sẽ giải quyết được triệt để những vấn đề nêu trên. Hãy trở thành một chính phủ quyết đoán hơn, dùng được tầng lớp kỹ trị. Các quan chức phải chịu trách nhiệm cá nhân cho các quyết sách của mình. Hãy biến Việt Nam trong những năm tới thành một “Quốc Gia Giáo Dục – Education Nation” nơi mà việc học tiếng Anh, Toán, Khoa học được coi trọng hàng đầu.
Chính phủ Việt Nam cũng nên cởi mở hơn với những phản biện xã hội. Hãy coi phản biện xã hội là những tấm gương lớn để soi lại mình. Đừng chụp mũ và áp đặt cho các phản biện xã hội là “diễn biến hòa bình” hay “các thế lực phản động”. Đảng CS Việt Nam luôn tự làm mới mình trong mỗi lần sinh tử. Vậy hãy làm mới mình, hãy chấp nhận thay đổi cho một đất nước tốt đẹp hơn.
Anh bạn thân của tôi, một nhà kinh tế học nổi tiếng Việt Nam đã từng nói đầy cay đắng: Bi kịch và nghịch lý lớn nhất của thể chế chính trị hiện giờ là nó biến những người hiền hòa, những trí thức và doanh nhân an phận có trách nhiệm (như tính cách của dân tộc Việt Nam) thành những người bất đồng. Chúng tôi yêu tha thiết đất nước này, và một cách nào đó, chúng tôi được hưởng lợi từ chế độ này. Tuy nhiên, mong thể chế này hãy thay đổi tích cực để đừng biến những người yêu nước (như chúng tôi), một ngày nào đó lại phải trở thành những người “bất đồng chính kiến”.
Nguyễn Quốc Toàn
(Đầu đề mượn lời thơ của Phạm Công Thiện. Bài viết có sử dụng các ý trao đổi của Vũ Thành Tự Anh và Trần Vinh Dự).

Tuesday, 2 February 2016

651. Quyền lực thuộc về dân

Bài rất hay.


(GDVN) - Khi lòng dân dậy sóng, sức dân có thể cuốn phăng tất cả những gì được xem là rào cản của quyền lực nhân dân. Sức mạnh của lòng dân là sức mạnh của quy luật.  

Truyền thông quốc tế ngày 1/2 đưa tin, Quốc hội mới của Myanmar được bầu ngày 8/11/2015 đã nhóm họp lần đầu tại thủ đô Naypyidaw hôm qua. Đây là lần đầu tiên trong hơn 50 năm qua tại đất nước này có một Quốc hội được dân bầu và đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của lãnh tụ Aung San Suu Kyi chiếm đa số ghế tại cơ quan lập pháp Myanmar.
Nền chính trị tại Myanmar đã đổi thay theo nguyên tắc dân chủ, quyền lực đã thuộc về những người được nhân dân Myanmar lựa chọn để trao gửi niềm tin và khát vọng của họ. Đất nước Myanmar đã thật sự chuyển mình sau chiến thắng lịch sử của NLD trong một cuộc bầu cử tự do.
Dư luận thế giới hướng về Myanmar với những kỳ vọng tích cực và hy vọng yên bình ở nơi mà chế độ quân phiệt được thay thế bằng nền dân chủ một cách hòa bình với đầy những nghĩa cử nhân văn. Nơi mà lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia được tôn trọng và là nền tảng cho mọi quyết định đổi thay.
Lãnh tụ NLD Aung San Suu Kyi tham dự phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới Myanmar. Ảnh: EPA.
Nghị sĩ Nyein Thit thuộc NLD đã nói với hãng tin AFP rằng: “Chúng tôi sẽ làm việc để có được nhân quyền và dân chủ cũng như hòa bình cho đất nước chúng tôi".
Với phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới sau bầu cử, người ta nhìn thấy những giá trị của nền dân chủ được nuôi dưỡng dưới chính quyền của Tổng thống Thein Sein đã được đảm bảo và trở thành nguyên tắc nền tảng cho mọi sinh hoạt chính trị tại Myanmar.
Tuy nhiên, theo người viết thì những gì diễn ra trên đất nước Myanmar có ý nghĩa không chỉ là một sự đổi thay chính trị - xã hội tại đất nước này.
Chiến thắng của nền dân chủ trước chế độ quân phiệt tại Myanmar còn là sự khẳng định những nguyên lý, nguyên tắc mà con người phát hiện ra, xây dựng nên làm nền tảng cho mọi họat động chính trị nhưng đã bị xóa nhòa ở nhiều nơi, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Myanmar dưới chính quyền quân sự trong hơn nửa thế kỷ qua.
Quyền lực luôn thuộc về nhân dân
Những nhà chính trị học và xã hội học xây dựng nên các khái niệm của phạm trù quyền lực, đã rất khoa học và thực tế khi xác định quyền lực thuộc về nhân dân. Cho dù quyền được xác lập bởi luật pháp, lực là sức mạnh của lòng dân, nhưng thực ra nền tảng của quyền lực đều là sức mạnh của nhân dân thông qua thực thể chính trị đại diện là nhà nước.
Có nhiều học thuyết chính trị cho rằng, nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị sử dụng để cai trị những giai cấp, những tầng lớp khác – gọi chung là tầng lớp bị trị. Theo người viết, đó là những lý luận thiếu thực tiễn và không phản ánh được bản chất của nhà nước – thực thể quan trong nhất của thể chế chính trị.
Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân. Đó là nguyên lý. Nhà nước không thể ra đời hay hình thành bất cứ lúc nào, như thế nào cũng được. Theo sự phát triển của lịch sử nhân loại, khi mâu thuẫn về lợi ích của con người trong chế độ công xã nguyên thủy không tự giải quyết được thì bắt đầu hình thành nên định chế đầu tiên được trao quyền phán xét người khác.
Nghĩa là một tổ chức có quyền lực hết sức sơ khai – cơ sở đầu tiên cho sự ra đời của nhà nước sau này - đã hình thành trong buổi ban đầu của văn minh nhân loại cũng đã xuất phát từ nhân dân và chỉ được nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực. Điều đó cho thấy nhân dân là nhân tố quyết định quyền lực hay nói cách khác quyền lực luôn thuộc về nhân dân.   
Quyền lực luôn thuộc về nhân dân. Lực lượng cầm quyền chỉ được nhân dân ủy nhiệm nắm giữ quyền lực. Hình ảnh nhân dân Myanmar ủng hộ NLD. Ảnh: Reuters.
Do vậy, không thể có nhà nước của giai cấp thống trị hay quyền lực thuộc về lực lượng nắm quyền mãi mãi. Lực lượng cầm quyền chỉ được nhân dân ủy thác nắm quyền lực trong những giai đoạn nhất định thông qua những sự ủy nhiệm –  nguyên lý ban đầu cho các cuộc bầu cử phổ thông ngày nay - khi lực lượng cầm quyền có khả năng và điều kiện sử dụng quyền lực. 
Tất cả những chế độ chính trị, những nhà nước ra đời không theo nguyên lý ấy đều không phải là nhà nước đại diện cho quyền lực của nhân dân – và đó chỉ là “cái gọi là nhà nước” mà thôi. Đó là kết quả của việc tiếm quyền, cướp quyền, dù trực tiếp bằng các cuộc bạo loạn lật đổ, đảo chính hay gián tiếp là những cuộc bầu cử mỵ dân, hình thức.
Một khi không đại diện cho quyền lực của nhân dân thì bất cứ chế độ chính trị nào, bất cứ hình thức nào của “cái gọi là nhà nước” cũng sẽ bị thay thế bằng sức mạnh của nhân dân. Còn việc điều đó diễn ra dưới hình thức nào, vào thời điểm nào sẽ phụ thuộc vào thời thế. Việc đổi thay chế độ chính trị tại Myanmar là một chứng minh rất rõ ràng cho nguyên lý ấy.
BBC ngày 1/2 dẫn lời ông Khin Maung Myint, một Nghị sĩ thuộc đảng NLD nói với AP: "Tôi không bao giờ tưởng tượng rằng đảng của chúng tôi sẽ có thể được thành lập chính phủ. Ngay cả công chúng cũng không nghĩ rằng Myanmar có thể có một chính phủ của NLD. Nhưng bây giờ điều đó đã là sự thật và nó giống như một cú sốc đối với chúng tôi và cả thế giới nữa".
Nói tóm lại, một chế độ chính trị, một nhà nước ra đời theo nguyên lý, theo quy luật thì đương nhiên là cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân, luôn được nhân dân tin tưởng và tôn trọng. Lực lượng cầm quyền sẽ có quyền và có lực nếu họ được giao nắm giữ quyền lực theo đúng cơ chế ủy nhiệm nhân dân – bầu cử tự do. 
Tất nhiên, trong lịch sử nhân loại đã có nhiều sự “sai lầm lịch sử”, nghĩa là lực lượng cầm quyền không nắm quyền lực theo quy luật. Và khi nhân dân đứng lên đòi quyền lực thì sẽ xảy ra hai tình huống. Thứ nhất là lực lượng cầm quyền quyết tâm không từ bỏ quyền lực đã cướp được thì họ sẽ phải trả giá, sự súp đổ của chế độ Gaddafi tại Libya là một ví dụ điển hình.
Thứ hai là lực lượng cầm quyền thuận theo thời thế, hành động theo quy luật lịch sử thì họ sẽ không phải đánh đổi những gì thuộc về quyền con người của họ. Họ chỉ phải trả lại những gì mà họ “giữ”nhưng không được nhân dân “trao”. Và họ vẫn có thể được sự ủy nhiệm của nhân dân nếu họ có đủ khả năng, điều kiện thực hiện quyền lực và được nhân dân ủy thác.
Tổng thống Thein Sein và chính quyền quân sự tại Myanmar đã ngả theo hướng thứ hai khi họ thấy vai trò của họ được trao nắm giữ vận mệnh quốc gia diễn ra không theo cơ chế ủy nhiệm của nhân dân.
Họ đã tạo điều kiện cho quyền lực nhân dân được thể hiện và khẳng định – nghĩa là họ đã sáng suốt trong việc khắc phục “sai lầm lịch sử” tại Myanmar và họ được lịch sử ghi nhận công lao ấy.
Lịch sử luôn khách quan và công bằng
Cuộc bầu cử diễn ra tại Myanmar và mang lại chiến thắng lịch sử cho NLD là một sự khẳng định sức mạnh của lòng dân. Bên cạnh đó cuộc bầu cử còn khẳng định nhân dân rất khách quan khi thể hiện sức mạnh và quyền lực.
Nhân dân là chủ thể của lịch sử dân tộc, họ viết nên những trang sử oai hùng hay đau thương cũng đều rất công bằng với thực tế.
Lịch sử luôn khách quan và công bằng với những ai hành động thuận theo quy luật. Ảnh: AP.
Khi lòng dân dậy sóng, sức dân có thể cuốn phăng tất cả những gì được xem là rào cản của quyền lực nhân dân. Sức mạnh của lòng dân là sức mạnh của quy luật lịch sử.
Bất cứ lực lượng nào cũng có thể bị nghiền nát nếu là trở lực muốn ngăn cản hay quay ngược bánh xe lịch sử. Những kết quả khắc nghiệt, những kết cục bi thương của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân có những “sai lầm lịch sử” đã minh chứng điều ấy.
Tuy nhiên lịch sử cũng ghi nhận, nhân dân chưa bao giờ đứng về một lực lượng nào để làm hại những lực lượng khác, nếu những lực lượng ấy không có “sai lầm lịch sử” hoặc nhân văn trong việc sửa chữa, khắc phục những sai lầm của quá khứ.
Đã có bao cá nhân, bao tổ chức “lầm lỡ” được nhân dân tạo cơ hội để thể hiện mình xứng đáng là đại diện cho quyền lực của nhân dân.  
“Quốc hội mới của Myanmar họp tại thủ đô Naypyidaw, bắt đầu bằng việc bầu Nghị sĩ U Win Myint của đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ làm Chủ tịch như mong đợi và bầu Nghị sĩ U Ti Khun Myat của đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP), đảng được quân đội hậu thuẫn làm Phó Chủ tịch”, BBC ngày 1/2 đưa tin.
Những gì đang diễn ra trên đất nước Myanmar là sự khẳng định tính công bằng và khách quan của lịch sử. Khi lực lượng nắm quyền hiểu được quy luật lịch sử, hành động thuận chiều lịch sử thì nhân dân được yên bình, đất nước thanh bình và sức mạnh của chính quyền càng được khẳng định vì nó là tựu trung của niềm tin và khát vọng của nhân dân.
Tổng thống Thein Sein và chính quyền của ông đang thực hiện việc chuyển giao quyền lực cho chính quyền của NLD và bà Aung San Suu Kyi, dự kiến sẽ hoàn tất vào tháng 3/2016.
Thein Sein và một số thành viên chính phủ của ông có thể không tiếp tục tham gia vào đời sống chính trị tại Myanmar nữa, nhưng có lẽ không người dân Myanmar nào quên được công lao của họ.
Nền chính trị tại Myanmar nói riêng, xã hội Myanmar nói chung không thể cởi mở và bình yên nếu như chính quyền quân sự không nuôi dưỡng nền dân chủ.
Đất nước Myanmar không thể có được những nền tảng vật chất và những định chế căn bản cho việc phát triển nếu chính quyền quân sự “tham quyền cố vị” mà quyết tâm phá nát những gì đất nước Myanmar có được trong bao năm qua với tâm lý “không ăn được thì đạp đổ”.
Và cuối cùng lịch sử dân tộc Myanmar không phải được viết tiếp bằng những trang sử bi thương bởi xung đột xã hội, bởi mâu thuẫn đảng phái và bởi chính những ích kỷ nhỏ nhen trong những toan tính thấp hèn mà người ta có thể thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, khi lực lượng cầm quyền quyết không từ bỏ quyền lực cho dù đã bị nhân dân tước bỏ.
Có thể thấy rằng, đây là nét nhân văn của một sự đổi thay mang tầm cỡ một cuộc cách mạng xã hội tại Myanmar -  một quốc gia nổi tiếng về bảo thủ và chính quyền quen sử dụng công cụ sức mạnh của thể chế vào việc đối phó với sức mạnh của nhân dân.
Tính nhân văn này được thể hiện bởi cả người về trước, kẻ về sau trong một cuộc bầu cử tự do để nhân dân Myanmar ủy thác quyền lực của họ. 
Theo người viết thì giá trị nền dân chủ tại Myanmar, ý nghĩa của sự đổi thay tại Myanmar là nằm ở việc khẳng định giá trị những nguyên lý, nguyên tắc trong cơ chế thể hiện sức mạnh nhân dân. Điều đó được thể hiện đậm nét hơn, sâu sắc hơn ở tính nhân văn của nó được những người trong cuộc thể hiện và tôn trọng.
Vì vậy, mặc dù chính phủ mới tại Myanmar chưa được thành lập, những chính sách mới của NLD chưa được khẳng định trong đời sống xã hội tại Myanmar, nhưng điều đó không làm ảnh hưởng đến ý nghĩa của sự đổi thay ấy.
Bởi lẽ nguyên lý là bất biến, quyền lực nhân dân là vĩnh cửu, còn tất cả những vấn đề khác sẽ biến thiên theo thế và thời.
Ý nghĩa của việc đổi thay chính trị tại Myanmar là bài học rất quý cho những lực lượng cầm quyền, những chính quyền không được xem là đại diện cho quyền lực của nhân dân ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới.
Vì tham quyền cố vị mà chống lại sức mạnh của nhân dân thì ắt sẽ phải trả giá. Hành động thuận theo quy luật và ứng xử nhân văn thì chắc chắn luôn được lưu danh sử sách và đó cũng được xem là di sản quý giá để lại cho những thế hệ mai sau.


Sunday, 8 November 2015

648.Đại gia BĐS Nguyễn Văn Đực: Phải cách ly người nghèo ra khỏi người giàu!

Cha nội này dám đi ngược lại với khẩu hiệu của đảng, nhà nước: Phấn đấu: Xã hội công bằng văn minh. ahhahahha. Đau thật.

Nguồn: Đại gia BĐS Nguyễn Văn Đực: Phải cách ly người nghèo ra khỏi người giàu!

07:13, Thứ Hai, 09/11/2015 (GMT+7)
(VnMedia) - “Những người công nhân, người nghèo sống với nhau vui hơn, chứ người nghèo ngồi gần ông nhà giàu đi xe xịn, ăn mặc xịn thì mặc cảm. Chúng ta nên cách ly ra, có một khu vực riêng cho người thu nhập thấp...” - Phó Giám đốc công ty địa ốc Đất Lành Nguyễn Văn Đực nêu quan điểm.
Nguyễn Văn Đực
Ông Nguyễn Văn Đực, Phó Giám đốc công ty địa ốc Đất lành: phải cách ly người nghèo ra khỏi người giàu
Phát biểu tại hội thảo khoa học "Cơ chế chính sách và giải pháp về nhà ở cho người thu nhập thấp tại đô thị và khu công nghiệp", ông Nguyễn Văn Đực, Phó Giám đốc Công ty địa ốc Đất lành cho rằng, xây nhà thu nhập thấp trong các khu trung tâm là “rất phí” và chỉ nên xây nhà bán giá cao cho người giàu. Vị đại gia này cũng cho rằng, không nên tiếp tục thực hiện chính sách dành 20% quỹ đất hoặc diện tích sàn của các dự án cho nhà ở xã hội.
VnMedia đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Đực về quan điểm này.
-       - Xin ông giải thích rõ hơn về quan điểm người giàu không nên ở lẫn với người nghèo.
Thật ra, nói người thu nhập thấp và người thu nhập cao mà không ở lẫn với nhau là mất đoàn kết, không có tính nhân văn, nhưng thực tế người thu nhập thấp khó lòng sống chung với người thu nhập cao.
Ví dụ như người ta đang xây nhà thu nhập cao là 70-100m2, thì người thu nhập thấp làm sao có tiền để mua những căn hộ này được? Rồi chi phí dịch vụ ở nhà này cao thì người thu nhập thấp có chịu được hay không? Thứ ba là sinh hoạt phí của khu đó cao, ví dụ như một ly cà phê 20 ngàn hay ổ bánh mì 20 ngàn thì người thu nhập thấp có sống được không? Nên tôi nghĩ chúng ta phải thực tế là người thu nhập thấp phải ở riêng, ở một khu dành cho người thu nhập thấp.
Chúng ta không phải đẩy họ vào khu ổ chuột, chúng ta vẫn có hạ tầng xã hội tốt và người thu nhập thấp vẫn sống thoải mái.
Tôi nói thật, những người công nhân sống với nhau, người nghèo sống với nhau vui hơn, chứ người nghèo ngồi gần ông nhà giàu đi xe xịn, ăn mặc xịn thì người nghèo nhiều khi mặc cảm. Vì vậy, chúng ta nên cách ly ra, có một khu vực riêng cho người thu nhập thấp.
-      Nhiều chuyên gia cho biết, quan điểm hiện đại ngày nay là ngoài việc cần phấn đấu xóa nhòa ranh giới giàu nghèo thì người nghèo và người giầu nên sống cộng sinh với nhau. Ví dụ như người nghèo cung cấp dịch vụ cho người giàu, như vậy, người giàu cũng được lợi mà người nghèo thì được đảm bảo sinh kế. Ông nghĩ sao về quan điểm này?
Ý tưởng đó rất hay nhưng tôi không nghĩ như vậy, bởi người giàu không phải lúc nào cũng có người giúp việc, và người giúp việc có khi từ tỉnh lẻ lên chứ không phải là những người nghèo đó. Còn mức sống của người giàu với người nghèo có chênh  lệch dễ làm cho người nghèo mặc cảm và khó sống.
-       Nhưng nhiệm vụ của những nhà quản lý và những người xây dựng chính sách là làm sao để khoảng cách đó gần hơn và để người nghèo đỡ mặc cảm hơn chứ không phải là đẩy họ ra xa nhau. Ví dụ như có những chính sách hỗ trợ cho người thu nhập thấp như giảm giá nhà, giảm phí dịch vụ, dành những căn hộ có diện tích nhỏ và nội thất không phải hạng sang... cho 20% nhà ở xã hội đó?
Cái đó rất khó. Doanh nghiệp chúng tôi làm toàn nhà cao giá, ví dụ như Vincom, chúng tôi toàn làm nhà 100m trở lên, không thể nào trong khu vực đó lại có những căn hộ 30-40m. Rồi chúng tôi phải dùng thang máy như thế nào..., nên giá thành của chúng tôi cao. Làm sao mà chúng tôi  bán rẻ cho người thu nhập thấp được. Cho nên, ở những vị trí như trung tâm thành phố, không nên để cho người thu nhập thấp ở. Người thu nhập thấp phải đi xa mà ở.
 - Thế với những người sinh ra, lớn lên, sống trên đất thổ cư của họ từ nhiều đời trong trung tâm thành phố thì sao. Từ trước đến nay, họ vẫn sống yên ổn cho tới khi những dự án xây nhà cho người giàu xuất hiện. Chẳng lẽ họ lại phải đi ra khỏi nơi đó để người giàu đến ở?
 - Theo tôi, hãy trả tiền rất cao cho họ để họ mua một khu đất khác cho dễ sống. Ví dụ trong trung tâm Thành phố không thể nào có quán cơm xã hội, quán cơm từ thiện được. Quán cơm từ thiện là phải đi xa, còn ở trung tâm Thành phố toàn nhà giàu, phải ăn 50.000đ/1 tô cơm chứ không thể mà bán 10-15.000đ/ tô cơm được. Không thể nào đòi hỏi được. Người nghèo là không thể nào đòi hỏi được.
 Tóm lại, ông vẫn cho rằng cần phải tách biệt người nghèo ra khỏi người giàu?
Đúng, tôi nói như vậy có thể là hơn 50% người dân sẽ nói tôi là kỳ thị, phân biệt, nhưng thực tế trong cuộc sống chúng ta phải chấp nhận là người nghèo thì phải tìm một nơi nào xa một chút, đất rẻ một chút, rồi mặt bằng sinh hoạt rẻ, không thể nào ở trung tâm được.
 -  Các nước tiên tiến đang cố gắng xóa dần khoảng cách, tìm giải pháp để người nghèo và người giàu có thể chung sống, trẻ em giàu và trẻ em nghèo có thể cùng chơi... còn quan điểm của ông có thể tạo ra sự cách biệt. Ngoài ra, trung tâm thành phố được đầu tư rất lớn từ nguồn lực của nhà nước như vườn hoa, công viên, quảng trường...  chứ không phải chỉ là của doanh nghiệp bỏ ra. Thực tế là doanh nghiệp đang được hưởng lợi từ những hạ tầng đó. Vậy nguồn lực đó không lẽ chỉ để phục vụ cho người giàu? Ông không nghĩ như vậy là bất công hay sao?
Đúng là như vậy thì cũng có sự bất công. Nhưng phải chấp nhận sự bất công đó, bởi vì xã hội hiện nay phân hóa hết rồi, chúng ta không có cách gì để kéo những khoảng cách đó lại.
-        -  Xin hỏi, ông thuộc tầng lớp người giàu hay người nghèo?
Tôi là người khá, chứ tôi không giàu.
-        -  Vậy nếu ông là người nghèo, ông có chấp nhận sự bất công đó không?
Tôi cũng là người từ tầng lớp thấp mà lên, và tôi cũng trăn trở cái sự bất công trong xã hội đó, nhưng sự thực không có xã hội nào hoàn toàn công bằng. Người nghèo thì phải cố gắng vươn lên làm giàu và nếu không vươn lên được thì phải chấp nhận như vậy chứ không thể nào đòi hỏi bình đẳng, thụ hưởng như người giàu được. Ví dụ như nhà nước mở trường công, người nhà giàu có thể gửi con trường quốc tế, đó là quyền của người giàu. Còn mình con nhà nghèo thì không thể đòi hỏi con mình cũng phải học trường quốc tế.
-         - Nhưng chúng ta đang nói đến chính sách của nhà nước...
-        Đối với chính sách công, tôi cho là nhà nước phải có tính thực tế, bởi vì người nghèo người giàu không thể sống chung được, tôi nói là không thể sống chung được!
Nếu cho người nghèo mua một căn  hộ chung với người cao cấp, tôi đảm bảo 1-2 năm sau họ cũng bán họ đi, họ bán giá cao họ đi. Rất nhiều người nhà tái định cư họ cũng không sống được và phải đi ra xa.
Chúng ta rất dễ bị một cái nhân văn quá đáng là giải tỏa thì phải cấp nhà ở cho người ta. Tôi cho rằng nếu giải tỏa chỉ đền họ một số tiền, họ đi đâu là quyền của họ. Ở đây chúng ta giải tỏa xong lại cấp cho họ một căn hộ, nhưng người nghèo ở căn hộ đó không được, bị nhiều phí quá cuối cùng họ cũng bán mà đi. Tôi khẳng định 90% nhà tái định cư đều bán  hết.  Tôi bảo đảm nếu cho người nghèo ở chung với nhà giàu thì 90% chỉ 1-2 năm sau họ bán mà đi vì không sống nổi.
Không giải quyết được bài toán phân hóa thì chúng ta phải chấp nhận thực tế. Phân hóa về tài sản, phân hóa về đẳng cấp thì phải phân hóa về chỗ  ở, xe đi lại, ăn mặc...
 -   Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi.
Tuệ Khanh

679.0 Hướng dẫn cài đặt AD RMS server ( Active Directory Rights Management Services) có trong Windows Server 2012.

Nguồn: https://mdungblog.wordpress.com/2018/06/21/simple-guide-huong-dan-cai-dat-ad-rms-windows-server-2012-r2/   Hôm nay mình xin giới thiệ...