SGTT.VN - Có hai lý do củng cố cho chế độ công hữu về đất đai. Thứ nhất, thể hiện được đúng bản chất của đất đai không phải là của riêng ai, mà là tặng vật của tự nhiên ban tặng cho cả dân tộc, có công sức gìn giữ và bảo vệ của tất cả mọi người. Thứ hai, nếu tư nhân hoá đất đai thì dễ hình thành tầng lớp chủ đất mới, một số người giàu có bỏ tiền ra để giữ đất, đầu cơ đất đai tạo nên trở lực lớn cho quá trình đầu tư phát triển.
Những nhược điểm từ thực tiễn
Hộ gia đình, cá nhân ở nước ta được sử dụng đất ở (không hạn mức thời gian và diện tích), đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối (có thời hạn tuỳ theo ngành), đất chuyên dùng (như đất ở đối với đất có nguồn gốc từ đất ở và có hạn mức thời gian và diện tích theo mục đích sử dụng đối với đất mới được Nhà nước giao). Ảnh: TL SGTT |
Nhưng chế độ công hữu về đất đai cũng có một số nhược điểm từ thực tiễn. Thứ nhất, người sử dụng đất không có động lực để sử dụng đất một cách tốt nhất, không muốn đầu tư dài hạn vào đất đang sử dụng, làm hạn chế hiệu quả sử dụng đất vì đất đai đó không phải là tài sản lâu dài của họ. Thứ hai, quyền định đoạt về đất đai thuộc các cơ quan nhà nước dễ dẫn tới sự can thiệp hành chính vào thị trường quyền sử dụng đất, tạo nguy cơ phát sinh tham nhũng, gây trở ngại lớn cho đầu tư phát triển. Thứ ba, sự không chỉnh thể về lý luận và thực tiễn tạo nên những khái niệm “giả vờ” gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật như quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất, thị trường quyền sử dụng đất, giá quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 đã phải định nghĩa giá quyền sử dụng đất và nói rằng trong luật này gọi là giá đất. Sự thiếu minh bạch về khái niệm dẫn tới khả năng thực thi sai pháp luật, làm lẫn lộn cách thức phân chia địa tô giữa người sử dụng đất và Nhà nước.
Chế độ công hữu về đất đai chỉ có ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ. Hiện nay cũng chỉ còn ở một số nước như nước ta (sở hữu toàn dân), Trung Quốc (sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước), Cuba và Triều Tiên (sở hữu nhà nước). Ở các nước thuộc khối Liên hiệp Anh, một phần đất đai được xác lập theo nguồn gốc là của nhà vua, mọi người có thể mua và có thể thuê, thời hạn thuê dài nhất lên tới 999 năm. Ở Đài Loan – Trung Quốc, hiến pháp xác định đất đai là tài sản của cả dân tộc, Nhà nước công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai theo quy định của pháp luật.
Chế độ sở hữu đất đai hợp lý cho hộ gia đình, cá nhân
Tất cả các nhà lý luận kinh tế chính trị học trên thế giới đều nói rằng sở hữu đất đai là một loại sở hữu đặc biệt, không phải của tất cả mọi người mà cũng không phải của riêng ai. Gọi là sở hữu gì cũng chỉ là thuật ngữ, nội dung cụ thể phải được xác lập theo các quy định của pháp luật. Trên thực tế, nội dung cụ thể về quyền định đoạt đối với đất đai ở ta hiện nay không khác mấy so với nội dung cụ thể của quyền sở hữu tư nhân về đất đai ở các nước tư bản phát triển. Không có sự khác nhau về quyền của Nhà nước và quyền của người giữ đất; chỉ có sự khác nhau về phạm vi thực hiện các quyền đó.
Hộ gia đình, cá nhân ở nước ta được sử dụng đất ở (không hạn mức thời gian và diện tích), đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối (có thời hạn tuỳ theo ngành), đất chuyên dùng (như đất ở đối với đất có nguồn gốc từ đất ở và có hạn mức thời gian và diện tích theo mục đích sử dụng đối với đất mới được Nhà nước giao). Theo luật Đất đai năm 2003, chế độ sở hữu toàn dân hiện nay cũng không còn nguyên nghĩa là chế độ công hữu về đất đai nữa. Nhà nước đã trao hết quyền sử dụng cho dân, trao hầu hết các quyền định đoạt tài sản cho người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân (chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho, thừa kế, cho thuê, thế chấp, góp vốn). Nhà nước chỉ còn giữ lại quyền định đoạt về quy hoạch sử dụng đất và quyền cưỡng chế thực hiện quy hoạch sử dụng đất (thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất). Người nào có đất hiện nay cũng coi như đó là đất của mình, chỉ còn một ám ảnh khi chẳng may bị Nhà nước thu hồi đất.
Khi bắt đầu đổi mới, chỉ một chính sách giao đất của hợp tác xã cho hộ gia đình, cá nhân để sử dụng ổn định lâu dài đã tạo động lực giúp cho đất nước ta không chỉ thoát khỏi nạn thiếu lương thực mà còn đưa nước ta trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đến nay, động lực này đã cạn, nhu cầu phát triển đất nước để trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đang cần những động lực mới hơn. Đối với đất đai, việc trao quyền sở hữu hạn chế cho mọi thành phần kinh tế, trong đó có hộ gia đình, cá nhân, là một động lực mới. Trước hết, làm cho người sử dụng đất an tâm đầu tư trên mảnh đất “của mình”. Đây cũng là điều kiện quan trọng để người chí thú làm nông nghiệp mạnh dạn phát triển kinh tế trang trại, đầu tư vào công nghệ nhằm tăng năng suất và sản lượng. Có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư hạ tầng cho khu vực tam nông, việc chuyển đổi cơ cấu lao động vùng nông thôn mới tiến hành được thuận lợi. Tiếp theo, việc giao quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai cho hộ gia đình, cá nhân tương đương với việc hạn chế lại quyền thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất của Nhà nước, làm giảm đi đáng kể nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai. (còn tiếp)
GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng bộ Tài nguyên và môi trường
Bài viết kỳ sau sẽ bàn đến những thách thức và cơ hội khi xác lập chế độ sở hữu tư nhân về đất đai cũng như những bước chuẩn bị mang tính kỹ thuật cho quá trình này
No comments:
Post a Comment
Ghi một nhận xét ( bỏ dấu =)
- Tô đậm: "câu muốn tô đậm"
- Chữ nghiêng: " câu muốn in nghiêng "
- Chèn link: "text"
- Chèn hình: "[img]link hình muốn chèn[/img]"
- Chèn video: "[youtube]link video cần chèn[/youtube]"