Showing posts with label case_study. Show all posts
Showing posts with label case_study. Show all posts

Monday, 1 June 2015

738. Sự khốn cùng của “tư duy triệu phú”

Một góc nhìn rất khác. Đọc mà giật cả mình. Nhờ ngày xưa khi học Quản trị học/ Quản trị nhân sự, cả Giảng viên và sinh viên đều mê mẫn với chuyện làm sao để đắc nhâm tâm đối phương, để khai thác triệt để những thứ có thể để phục vụ cho một nhu cầu nào đó của bản thân.
=
============================================

 
Cuộc sống khó khăn và rối ren, bạn cần một lời khuyên, nhưng từ đâu? Với nhiều người, giải pháp gần nhất là đi mua một cuốn “self-help”. Khái niệm sách “self help” rất rộng, nhưng thường được hiểu là loại sách dạy tu thân, học làm người, chứa đầy lời khuyên thông tuệ và các “bí kíp” để nhanh giàu, nhanh khôn, nhanh thành công...
 
 
Đổ bộ vào Việt Nam sau thời kỳ mở cửa, sách self-help - hay được gọi là sách tu thân, tự lực, tự giúp - vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ, nhưng người đến với nó như nước chảy vào vùng xoáy. Dòng sách này đã trở thành nồi cơm, chỗ dựa của nhiều nhà xuất bản.
THỜI CỦA CÁC "BÍ KÍP" CHO KHÔNG
Bước vào một hiệu sách, bạn sẽ thấy chừng một phần ba diện tích kệ sách, thường là khu vực gần cửa nhất, được dành cho thể loại này. Hai mảng bán chạy nhất hiện nay là học làm giàu và phát triển bản thân thường đi kèm với nhau: thay đổi bản thân để thịnh vượng. Nhiều năm qua, những cuốn như Dạy con làm giàu, Cha giàu cha nghèo, Đọc vị bất kỳ ai, Chiến thắng con quỷ bên trong bản thân, Tôi tài giỏi, bạn cũng thế hay Sức mạnh của tư duy tích cực luôn nằm trong nhóm sách bán chạy nhất ở Việt Nam.
Gần đây, thậm chí ông Đặng Lê Nguyên Vũ, chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên, còn cho phát không hàng chục triệu cuốn Nghĩ giàu, làm giàu của Napoleon Hill và Đắc nhân tâm của Dale Carnergie cho thanh niên cả nước. Hai cuốn kinh điển này nằm trong một danh sách được ông Vũ gọi bằng cái tên cũng rất self-help là “Tủ sách đổi đời”.
Lý do gì khiến nhiều người đón nhận thể loại sách này nhiệt tình tới như vậy?
Như đã thể hiện qua chữ “đổi đời” của ông Vũ, loại sách này đem lại hi vọng. Bỏ ra vài chục nghìn đồng, người mua sách self-help sở hữu những giấc mơ ngọt ngào. Tuần làm việc 4 giờ hứa có thể giúp bạn “làm việc ít đi 20 lần nhưng thu nhập tăng lên 10 lần”, và khuyên “thuê một trợ lý cách xa nửa vòng trái đất để cô này viết một lá thư ngọt ngào xoa dịu người vợ đang giận dữ của bạn”. Nghĩ giàu, làm giàu không yêu cầu bạn lao động vất vả hay có tài năng, chỉ cần bạn rất, rất mong muốn trở nên giàu có. Cái đó thì không khó.
Trên trang mạng Học làm giàu, một thanh niên đặt ra mục tiêu “Sau năm thứ nhất có 20 triệu đồng, sau năm thứ năm có 1 triệu USD, sau năm thứ mười có 1 tỉ USD”. Các thành viên khác ngưỡng mộ: “Việt Nam mình có nhiều người có hùng tâm như anh thì ước mơ dân giàu, nước mạnh không phải quá xa vời. Chúc anh thành công!”.
Đằng sau những ảo tưởng làm giàu kiểu mì ăn liền kia là những dịch chuyển xã hội và thay đổi cơ bản trong triết lý sống của người Việt. Trước hết, hai thập kỷ qua đã tạo ra huyền thoại Từ cậu bé nhà quê thành đại gia mà ông Đặng Lê Nguyên Vũ là một ví dụ.
Nếu như trước kia nhiều người cho rằng giàu nghèo có số và vị trí của mình trong xã hội đã được xếp đặt sẵn thì ngày nay, chứng kiến của cải nảy nở xung quanh mình, họ chuyển sang thái cực kia và tin vào một triết lý lạc quan là bạn hoàn toàn có thể điều khiển được tiền tài và danh vọng của mình nếu nắm được một số “kỹ thuật” nhất định: 23 nguyên tắc của Carnegie, 13 bước của Hill, 8 bài học từ Cha giàu, cha nghèo của Robert Kiyosaki.
Cuộc đời, vốn được quan niệm là bất định, nay được cho là được quản trị bởi một số “bí mật” mà rất may đã được một số tác giả phát hiện và truyền đạt lại, dễ hiểu hơn bản cửu chương.
Thứ nữa, mô hình lao động cùng tập thể, cá nhân dựa vào cộng đồng trong cuộc sống nông nghiệp không còn thích hợp cho một môi trường kinh tế thị trường đầy cạnh tranh. Thay cho một hệ thống hài hòa, vạn vật đều có chỗ đứng của mình, cuộc đời nay được hiểu như một mê cung, một cuộc đua, một rừng rậm, những biểu tượng hay được dùng trong các sách self-help phương Tây.
Trong môi trường này, người ta luôn phải cập nhật các kỹ năng và tái tạo bản thân để mạnh hơn đối thủ, các sách dạy phát triển bản thân đánh vào nỗi lo âu thường trực này. “Cần phải sẵn sàng để ứng phó với những thay đổi, nếu không mỗi người sẽ tự hủy hoại cơ hội tồn tại của mình”, cuốn Ai lấy miếng phó mát của tôi cảnh báo và bán được 26 triệu bản trên toàn cầu.
SÁCH ĐẸP NÓI DỐI
 
 
Rất đáng tiếc, đưa sách dạy làm giàu và kỹ năng sống như những cuốn trên cho thanh niên, hay bất cứ ai cũng vậy, là gửi họ và cộng đồng vào con đường cụt bởi những tác động tiêu cực của chúng.
Vấn đề đầu tiên là triết lý của phong trào self-help hiện đại, được đặt nền móng bởi Dale Carnegie với Đắc nhân tâm, là “mỗi người vì chính mình”. “Phát triển bản thân” luôn là một dự án vì mục đích cá nhân, không có chỗ cho những vấn đề của cộng đồng và hoạt động xã hội.
Trong thế giới quan đó, con người là một động vật ích kỷ và nông cạn. Họ thích được nghe tới tên mình, muốn được tỏ ra quan trọng và thèm khát sự khen ngợi. Thay vì làm cho con người tốt đẹp lên, Carnegie đánh vào bản năng vị kỷ của họ và khuyên người ta lợi dụng nó. Con người chỉ là những loại cá khác nhau, và bí mật để đạt được thành công là “học được cách móc mồi vào lưỡi câu phù hợp với từng loại cá”.
Nhiều nguyên tắc của Đắc nhân tâm phục vụ cho những con người giả tạo, cơ hội và thao túng. Trong cuốn sách, một đại tư bản tự hào vì ông có thể gọi nhiều công nhân của mình bằng tên riêng nên “chưa hề có một cuộc đình công nào xảy ra tại các nhà máy thép của ông”. Ở đây có một ẩn ý xã hội sâu xa hơn: thay vì phải xây nhiều nhà vệ sinh hơn cho các nữ công nhân dệt may, các ông chủ hãy cố học thuộc tên riêng của họ và thế là mọi chuyện đều ổn thỏa cả.
Nếu như trước kia giá trị sống của người Việt là trở thành người quân tử, ưu việt về đạo đức và vững vàng về luân lý thì ngày nay với nhiều người, mục tiêu đơn thuần chỉ là tạo ra một bộ mặt khả ái, bởi như Carnegie giải thích, thành công “được định nghĩa phần lớn qua việc người khác nhìn bạn như thế nào”.
“Với Carnegie - Steven Watts, tác giả cuốn tiểu sử về ông, viết - trọng tâm dịch chuyển từ việc xây dựng những giá trị đạo đức bên trong mỗi người sang xây dựng những ấn tượng mà người ta gây cho người khác”. Carnegie nói về “thương hiệu bản thân” trước khi chữ này tồn tại. Nhà văn Sinclair Lewis phê phán Carnegie đã thay thế những chữ niềm tin, danh dự, cao thượng trong những cuốn sách học làm người trước kia bằng chữ giàu có. Ông đánh đồng sự đẹp đẽ của tính cách con người với khả năng kiếm tiền.
Và như vậy, thách thức của cuộc đời không còn là việc đi tìm một ý nghĩa sống trong cộng đồng của mình nữa mà là giám sát và quản lý bản thân để trở nên giàu có. Cho rằng không khi nào là quá sớm, một số nhà trẻ nhanh nhạy ở Việt Nam tổ chức những khóa học “Dạy trẻ kỹ năng lãnh đạo bản thân từ những năm đầu đời”. Viễn cảnh ở đây là những đứa trẻ sớm điều khiển được người khác và theo dõi hiệu quả của bản thân như của một cỗ máy.
LẢNG TRÁNH HIỆN THỰC
 
 
Bên cạnh tham vọng “đọc vị” người khác, “tư duy tích cực” là một trụ cột cơ bản khác của văn hóa self-help, và như tác giả Barbara Ehrenreich lập luận trong cuốn Sự quảng bá triền miên tư duy tích cực đã làm xói mòn nước Mỹ như thế nào, nó đang gặm nhấm nền tảng xã hội.
Ở đây “tư duy tích cực” không liên quan gì tới một thái độ sống lạc quan. Nó là một kiểu niềm tin, có thể gọi là mù quáng, là người ta có thể dùng ý nghĩ để điều khiển những gì xảy ra với bản thân. Bạn muốn giàu? Bạn phải thật sự, luôn luôn và sắt đá tin mình sẽ giàu. Vì thế mà các nhà trẻ nói trên cho lũ trẻ mẫu giáo hằng ngày lặp lại các câu như: “Tôi là một thần đồng trong lớp học” và “Tôi đang trên con đường tạo ra sự giàu có tuyệt vời”.
Cuốn Nghĩ giàu, làm giàu yêu cầu bạn viết số tài sản mình muốn có lên một tờ giấy và đọc to nó lên ngày hai lần vào buổi sáng và buổi tối. Cần làm như vậy vì tiền bạc “tuy không nói năng được nhưng có thể nghe thấy khi ai đó khao khát gọi tên nó” - tác giả đoan chắc. T. Harv Eker, tác giả Những bí mật của tư duy triệu phú, hướng dẫn bạn đọc “cài đặt” tư duy của người giàu bằng cách đặt tay lên tim và nói: “Tôi là một người đón nhận tuyệt vời. Tôi sẵn sàng và rộng mở đón nhận những lượng tiền khổng lồ đến với cuộc đời tôi”. Sau đó cần chạm lên đầu mình và nói: “Tôi có tư duy triệu phú”.
Đằng sau “tư duy tích cực” này kia là quan điểm nguy hiểm rằng bản thân mỗi người, giàu có hay bần hàn, hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình, và đó là lý do hoàn hảo nhất để người giàu tự tán dương mình và phủi tay chối bỏ trách nhiệm xã hội. Gần đây người ta tâm đắc với câu “35 tuổi mà còn nghèo, đấy là tại bạn”. Thông điệp ở đây là gì? Nghèo đói không thuộc về trách nhiệm của quyền lực - họ vô can. Người nghèo nghèo vì họ không có “tư duy triệu phú”.
Quan điểm này bỏ ra ngoài những bất bình đẳng trong xuất thân, trong tiếp cận giáo dục và y tế. Nó không đặt câu hỏi về những bất công trong xã hội, không bàn tới công lý lẫn thể chế, nó không có khái niệm những nhóm người dễ tổn thương. Nó bỏ qua đúc kết dân gian “con sãi ở chùa lại quét lá đa”.
Tệ hơn, tư duy này làm những người nghèo bên lề xã hội cuối cùng quay ra tự trách cứ bản thân, thay vì phê phán các tương quan và chính sách xã hội đẩy họ vào trạng thái này. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “tư duy tích cực” được dùng như một công cụ kiểm soát xã hội. Barbara Ehrenreich dẫn ra rằng khi các tập đoàn Mỹ sa thải hàng loạt nhân viên vào thập niên 1980 cũng là lúc họ thuê nhiều nhất các diễn giả về “tư duy tích cực” tới để xoa dịu những người bị đuổi việc và để những nhân viên chưa bị đuổi tiếp tục lao vào cày cuốc.
Và cuối cùng, “tư duy triệu phú” kiểu “tự kỷ ám thị” đó cổ xúy sự dịch chuyển của các giá trị đạo đức. Nếu như trước kia người ta tôn vinh các cá nhân theo đuổi một cái nghiệp, cống hiến, say mê, thì bây giờ sự say mê duy nhất được ngưỡng mộ là say mê làm giàu. Và sự giàu có mới nổi cần một biện minh về đạo đức để được chấp nhận và tôn trọng.
Trên nền tảng đạo đức mới này, giàu có nghĩa là thành công, với Napoleon Hill thì nó còn “không cần lời xin lỗi”. Làm giàu không những đã trở thành đích sống, mà còn là một đức hạnh, “làm giàu là vinh quang”. Hệ quả là gì? Trong khi tôn vinh người giàu, người ta rất dễ đi đến kết luận thứ hai rằng người nghèo làm xấu hổ đất nước, là gánh nặng của cộng đồng. Napoleon Hill viết: “Chúa đứng bên những người quyết tâm làm giàu”.
Đáng ngạc nhiên là chưa một ai thắc mắc nếu hàng triệu cuốn sách dạy “tư duy tích cực” và làm giàu có hiệu quả thì GDP quốc gia hằng năm đã phải tăng như thế nào rồi. Nhưng các ý tưởng self-help không khuyến khích các câu hỏi, chúng chỉ yêu cầu người đọc tin vào chúng. Nếu bạn chưa giàu thì có nghĩa là bạn chưa tin đủ, bạn cần mua thêm sách, nghe thêm băng, tới dự thêm các buổi thuyết trình.
Theo Salerno - tác giả cuốn Phong trào tự lực đã làm nước Mỹ trở nên bất lực như thế nào, cứ chừng 18 tháng người đọc self-help lại mua một cuốn sách mới. Sự khốn cùng của kiểu “tư duy triệu phú” này là ở chỗ nó làm tê liệt khả năng tư duy độc lập, phản biện và ý thức xã hội, những điều đang thiếu ở Việt Nam. Nó không dẫn tới khai sáng và minh triết. Đám đông đi theo nó vừa phỉnh nịnh vừa giẫm đạp lên nhau để đạt được mục đích của mình, tin tưởng rằng chính nghĩa và đạo đức thuộc về kẻ giàu có.   
ĐẶNG HOÀNG GIANG
 
 
 

Sunday, 18 August 2013

689. Biện chứng là gì ?

 

Chữ biện chứng ( Dialectique) lấy nguồn từ chữ Hy lạp ( Dialegein) có nghĩa lúc đầu là nói chuyện, lý luận, nghệ thuận nói chuyện, nghệ thuật lý luận, gồm có Đề, Phản Đề và Tổng Đề ( Thèse, Anti these et Synthèse), được Socrate dùng để nói chuyện với dân, nêu ra những mâu thuẫn của người đối thoại, nhất là giới bình dân, để gợi ý cho họ, để làm cuộc đối thoại trở nên phong phú, tiếp đó là được những người của trường phái hùng biện và ngụy biện dùng để nói lên sự mâu thuẫn của đối phương, để tìm cách chiến thắng họ

Saturday, 4 August 2012

665. Siêu Từ Điển Bách Khoa Toàn Thư Britannica 2012 Ultimate

Siêu Từ Điển Bách Khoa Toàn Thư Britannica 2012 Ultimate
Written by Admin    Friday, 09 March 2012 10:07   
DVD Shop - Shop tài liệu Tiếng Anh

Từ điển bách khoa toàn thư Britannica 2012 Ultimate
Encyclopaedia Britannica 2012 Ultimate Referrence Suite DVD + Serial Key | 4.20 GB

 

Nếu bạn là một tín đồ của những bộ bách khoa toàn thư số hóa như Britannica 2011 hay Encarta thì gần như 99,9% rằng bạn sẽ không thể bỏ qua Britannica 2012 - phiên bản mới nhất của Bách Khoa Toàn Thư Britannica nổi tiếng. Thậm chí khi so với việc Bách Khoa Toàn Thư Encarta của ông lớn Microsoft đóng cửa vào năm 2009 thì sẽ càng thấy khả năng tồn tại, phát triển cũng như vị thế của Britannica là như thế nào trên thị trường người dùng nghiên cứu và thích tìm hiểu thông tin. Britannica 2012 là nguồn thông tin cực kỳ chọn lọc và được biên tập vô cùng kỹ lưỡng bởi các chuyên gia trong từng lĩnh vực liên quan, hứa hẹn là nguồn tài liệu tham khảo cho các bạn học tiếng Anh hoặc tra khảo/ nghiên cứu & tìm hiểu thông tin về rất nhiều những lĩnh vực như lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học, nghệ thuật... Ngay từ bây giờ bạn đã có thể mua trực tiếp bản Britannica từ nhà phân phối gốc với giá 39.95$ hoặc download miễn phí từ Ebooktienganh. Nếu bạn không thể mua bản gốc hoặc bị giới hạn thời gian/ tốc độ download - bạn có thể đặt mua từ Ebooktienganh DVD Britannica 2012 với giá chỉ 50.000 đồng.

Dưới đây là Link Download và thông tin chi tiết về nội dung các thay đổi và cập nhật so với Britannica 2011.

 

 

 

Encyclopaedia Britannica
Access the world's most trusted and authoritative information, featuring over 100,000 articles from the 32-volume Encyclopaedia Britannica print set.

Britannica Student Encyclopedia
Find information easily in almost 16,000 entries that are tailored to school subjects.

Britannica Elementary Encyclopedia
Instill a look-it-up habit that will stay with students throughout their education and in life.

Book of the Year
Explore notable events in over 12,000 articles covering science, politics, sports, and more from 1993 - 2009.

Homework Helpdesk
A collection of useful homework resources including a video subject browse, online learning games and activities, online subject spotlights, and how-to documents on topics such as writing a book review.

Learning Games and Activities
Hundreds of fun and interactive games and activities to help students with subjects like Math, Science, and Social Studies.

Two Complete Dictionaries and Thesauruses from Merriam-Webster®
Together, Merriam-Webster's Collegiate® and Student Dictionaries and Thesauruses provide access to 405,000 definitions, synonyms and antonyms.

Merriam-Webster's Spanish-English Translation Dictionary
Translate an English word to Spanish and a Spanish word to English with the click of the mouse.

World Atlas
Take a tour of the world through more than 2,700 maps linked to articles about countries, economies, cultures, and national statistics.

Timelines
Watch history unfold with timelines that show the people, events, and discoveries of the past.

Britannica Classics
Read articles from Britannica's most famous contributors-from Sigmund Freud to Harry Houdini, Marie Curie to Orville Wright.

Explore
Easily browse through Videos, Britannica Classics, Classical Music, and more.

Britannica Biographies: Heroes & Villains
Over 600 biographies covering the world's heroes and villains throughout time.

Virtual Notecards
Take and save notes from your articles on a virtual notecard. Notes are printable, which makes your research easier, more productive, and portable.

Britannica Workspace
Save articles, images, video, and more in one convenient location to help keep your research organized.

Rich Multimedia
View vivid illustrations with 35,000 images, video, and audio that bring fascinating topics to life.

Additional Videos, Web Links, and Magazines Online
Link to over 166,000 sites you can trust-selected by Britannica editors-plus links to thousands of videos and magazines for a wealth of additional information.

 

Download (44 files)

Để đặt mua DVD Britannica 2012 với giá 50.000 Đ, bạn tham khảo link này, sau đó liên hệ Ebooktienganh tại số 01656092078 - hoặc mail ebooktienganh@gmail.com

Các bạn chú ý nếu file bị xóa thì báo lại cho mình tại bài viết này. Pass để download là ebooktienganh.com
Files 01-05: http://www.mediafire.com/folder/616socg3dfaxb
Files 06-10: http://www.mediafire.com/folder/1nbfi2wghc53h
Files 11-15: http://www.mediafire.com/folder/xyti87o6vi3nf
Files 16-20: http://www.mediafire.com/folder/2iijclussbqvl
Files 21-25: http://www.mediafire.com/folder/k1w9ra8a6p150
Files 26-30: http://www.mediafire.com/folder/r20ksbvjxqxm2
Files 31-35: http://www.mediafire.com/folder/g28v2behbbo13
Files 36-40: http://www.mediafire.com/folder/3587j40080pp8
Files 41-44: http://www.mediafire.com/folder/n6ir5vxz7q8wl 

Pass: ebooktienganh.com

Serial Key bản quyền: Vì lý do bản quyền nên key của phần mềm sẽ được share qua email. Để nhận được key phần mềm Britannica 2012 bạn hãy gửi email với tiêu đề là "Xin Key Britannica" tới email keybrit2012.ebooktienganh@gmail.com - sau khi nhận được mail của bạn chúng tôi sẽ send key lại cho bạn. Chú ý không share key này để tránh trường hợp blacklist và Britannica 2012 của bạn sẽ không sử dụng được.

Để đặt mua DVD Britannica 2012 với giá 50.000 Đ, bạn tham khảo link này, sau đó liên hệ Ebooktienganh tại số 01656092078 - hoặc mail ebooktienganh@gmail.com


Chú ý: đối với các file có định dạng .ebta, các bạn rename rồi đổi thành .rar, giải nén và sử dụng.

Sunday, 22 July 2012

658.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

NGUYỄN PHÚ ĐỨC

Theo TTPLDS: Trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự thời gian gần đây, đã phát sinh một số tình huống gây ra sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin minh hoạ bằng một trường hợp cụ thể mà hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.

Nội dung sự việc:

Luật sư Trần Văn S thuộc có nhận làm đại diện uỷ quyền tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị N. Văn bản uỷ quyền được chứng thực theo quy định pháp luật, được nộp ngay từ khi bắt đầu khởi kiện, với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Trần Văn S được đại diện cho bà Nguyễn Thị N tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; bà Nguyễn Thị N cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”.

Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Trần Văn S đã thay mặt bà Nguyễn Thị N đứng tên kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện M. Nội dung đơn kháng cáo đúng theo quy định nhưng Thẩm phán giải quyết vụ án không nhận đơn với lý do: ông Trần Văn S không được quyền kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị N mà phải có văn bản uỷ quyền ghi rõ là ông S được uỷ quyền kháng cáo thay và phải có công chứng, chứng thực (theo tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thực hiện điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ diễn biến nêu trên đã phát sinh 2 quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tại Điều 243 BLTTDS quy định về người có quyền kháng cáo: “Đương sự, người đại điện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.

Tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Việc uỷ quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm”.

Do đó, theo quan điểm này thì người đại diện của đương sự phải thực hiện theo đúng các quy định của Điều 243 BLTTDS và hướng dẫn của mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP nêu trên, tức là phải có làm thêm văn bản uỷ quyền và phải có nội dung ghi rõ bà Nguyễn Thị N uỷ quyền cho ông Trần Văn S kháng cáo.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Tại khoản 1 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền”.

Đồng thời, tại khoản 2 Điều 74 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”.

Theo các quy định nêu trên thì không cần thiết phải làm thêm văn bản uỷ quyền kháng cáo cho người đại diện của đương sự. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của bà Nguyễn Thị N ghi rất cụ thể là ông Trần Văn S được đại diện cho bà tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định. Hay nói cách khác, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS cũng đã bao gồm cả quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án.

Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, đồng thời nhận thấy hướng dẫn tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP chỉ áp dụng đối với trường hợp văn bản uỷ quyền của đương sự không nêu rõ phạm vi uỷ quyền như trường hợp này hoặc mới phát sinh khi đương sự thực hiện quyền kháng cáo.

Trên đây là ý kiến của chúng tôi về việc nhận thức luật và áp dụng luật. Rất mong nhận được các ý kiến trao đổi, đóng góp từ phía các đồng nghiệp.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Trích dẫn từ: http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=19469774


657.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHOẢN TIỀN BÙ ĐẮP VỀ TINH THẦN DO BỊ XÂM PHẠM VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

THS. ĐINH VĂN QUẾ

Theo TTPLDS: Khoản tiền “bù đắp về tinh thần” do bị xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín là khoản tiền mà người bị xâm phạm hoặc người thân thích của người bị xâm phạm được hưởng theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Trước khi Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự năm 1995, chưa có quy định nào của pháp luật buộc người gây thiệt hại phải bồi thường khoản tiền này, do còn quan niệm cho rằng, tổn thất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm, uy tín không thể tính ra thành tiền được và “tinh thần” được coi là một phạm trù “phi vật chất”. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử trong nhiều năm cho thấy, việc buộc người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền để “bù đắp về tinh thần” cho người bị thiệt hại (nếu là sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm) hoặc cho người thân thích của người bị thiệt hại (nếu là tính mạng bị xâm phạm) là cần thiết, phù hợp với tập quán và truyền thống văn hoá xã hội của dân tộc Việt Nam.

Mặc dù Bộ luật dân sự năm 1995 đã quy định về khoản tiền “bù đắp về tinh thần” nhưng chỉ quy định: Tuỳ từng trư­ờng hợp, Toà án quyết định buộc người xâm phạm phải bồi thư­ờng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, còn khoản tiền đó là bao nhiêu thì Bộ luật dân sự năm 1995 chưa quy định. Do vậy, thực tiễn xét xử các Toà án địa phương đã áp dụng không thống nhất. Để khắc phục tình trạng này, ngày 28-4-2004, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; trong đó có khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết này thì:

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm,…

Đối với khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì người được nhận là những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng nạn nhân. Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương, tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

Đối với khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm thì người bị thiệt hại đương nhiên được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân,… Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương, tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

§èi víi khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm. Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương, tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

Nội dung hướng dẫn trên đã được “luật hoá” khi Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự năm 2005 thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người xâm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. 

Như vậy, trải qua một thời gian dài với nhiều quan điểm khác nhau, khoản tiền “bù đắp tổn thất về tinh thần” đã được Quốc hội chính thức quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 một cách chi tiết, bảo đảm việc áp dụng khi xét xử các vụ án dân sự và vụ án hình sự có phần bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Sau khi Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực (01-01-2006), ngày 08-7-2006  Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Theo hướng dẫn tại  Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 thì:

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

- Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại. Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

- Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại. Trường hợp không có những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại. Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm. Trong mọi trường hợp khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm phạm (bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay báo hình….), hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền thông tin xúc phạm…Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao cũng hướng dẫn tương đối cụ thể về trường hợp bồi thường khoản tiền “bù đắp tổn thất về tinh thần” nhưng thực tiễn xét xử vẫn có nhiều trường hợp vướng mắc khi phải giải quyết khoản tiền “bù đắp tổn thất về tinh thần” đối với trường hợp tính mạng bị xâm phạm. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao mới hướng dẫn trường hợp có một người chết và có nhiều người được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, nhưng chưa hướng dẫn trường hợp có nhiều người bị chết mà có một người hoặc một số người  thân thích với người đã chết được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần thì xác định mức bồi thường như thế nào?

Ví dụ: Khoảng 6 giờ ngày 29-3-2005, Nguyễn Quốc S lái xe ô tô tải biển kiểm soát 70H-3683 (do bà Nguyễn Thị Th là chủ sở hữu) chở 10 tấn hạt điều lưu thông trên quốc lộ 1A, hướng từ ngã tư An Sương về Thủ Đức. Khi đến giao lộ 1A và đường Nguyễn Văn Quá thuộc phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, do không làm chủ  tốc độ, xử lý tay lái kém, S để xe lao chéo sang trái đường đâm vào 3 xe máy đang đi từ hướng ngược chiều là: xe máy do anh Nguyễn Ngọc A điều khiển phía sau chở anh Sơn Ngọc T; xe máy do anh Vũ Hoài N điều khiển phía sau chở hai con là Vũ Thu H và Vũ Văn Q và xe máy do chị Nguyễn Thị M điều khiển. Sau khi đâm vào 3 xe máy trên, xe ôtô do S điều khiển còn tiếp tục lao vào quán cà phê ở phía trái đường, đâm vào 5 xe máy, 2 xe đạp và đâm vào ông Đoàn Văn N, Nguyễn Văn V, anh Nguyễn Ngọc Phan T.

Tai nạn xảy ra làm 4 người bị chết là anh Vũ Quốc N cùng với hai con của anh N là cháu Vũ Thu H, cháu Vũ Văn Q và anh Nguyễn Ngọc Phan T. Ngoài ra còn 7 người khác bị thương và hư hỏng một số tài sản.

Tại bản án hình sự sơ thẩm, ngoài việc quyết định về tội danh, hình phạt đối với Nguyễn Quốc S, các khoản tiền bồi thường thiệt hại về người và tài sản đối với những người khác, Toà án cấp sơ thẩm còn buộc bà Nguyễn Thị Th (chủ phương tiện) bồi thường cho gia đình anh N khoản tiền bù đắp về tinh thần là 12.600.000 đồng (36 tháng x 350.000 đồng).

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15-12-2005, đại diện gia đình anh N kháng cáo đề nghị xét xử lại phần dân sự.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số, Toà án cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm, buộc bà Nguyễn Thị Th bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh N số tiền 63.000.000 đồng (350.000 đồng/01 tháng x 180 tháng).

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Th người phải bồi thường khoản tiền tổn thất về tinh thần không đồng ý với quyết định của Toà án cấp phúc thẩm nên đề nghị cấp giám đốc thẩm xét lại bản án phúc thẩm về quyết định này của Toà án cấp phúc thẩm.

Khi trao đổi, thảo luận về quyết định của Toà án cấp phúc thẩm đối với khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà Toà án cấp phúc thẩm quyết định buộc bà Nguyễn Thị Th phải bồi thường cho vợ anh N, có nhiều ý kiến khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28-4-2004 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao chỉ mới có hư­ớng dẫn là một ngư­ời chết có một người thân thích hoặc có nhiều ng­ười thân thích thì tất cả những đó chỉ được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định (nếu hai bên không thoả thuận được), mà chưa hướng dẫn trường hợp có nhiều người chết, có nhiều ng­ười thân thích thì mức bồi thường được xác định như thế nào. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định: “Người xâm tính mạng của người khác” chứ không quy định một người hay nhiều người và mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Do đó, trường hợp trong một gia đình có nhiều người bị chết thì những mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa cũng không đ­ược vư­ợt quá 60 tháng lương tối thiểu. Trong vụ án trên, anh Vũ Quốc N cùng với hai con của anh N là cháu Vũ Thu H, cháu Vũ Văn Q bị chết thì những người thân thích của anh N, cháu H và cháu Q chỉ được bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa không đ­ược vư­ợt quá 60 tháng lương tối thiểu. Toà án cấp phúc thẩm buộc bà Nguyễn Thị Th bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh N số tiền 63.000.000 đồng (350.000 đồng/01 tháng x 180 tháng) là không đúng quy định của Bộ luật Dân sự .

Quan điểm thứ hai cho rằng, nếu trong một gia đình có nhiều người bị xâm phạm về tính mạng, thì ng­ười thứ nhất đ­ược bồi thường mức tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu, từ người thứ hai trở đi đ­ược tính theo tỷ lệ % giảm dần của mức tối đa 60 tháng lư­ơng. Ví dụ: Nếu ng­ười bị xâm phạm tính mạng thứ nhất đ­ược tính mức tối đa là 60 tháng l­ương, thì ngư­ời bị xâm phạm tính mạng thứ hai được tính 80% của 60 tháng l­ương là 48 tháng l­ương, còn ng­ười bị xâm phạm tính mạng thứ ba đư­ợc tính 60% của 60 tháng l­ương là 36 tháng l­ương. Theo quan điểm này thì trường hợp đối với 3 người chết trong vụ án trên những người thân thích của anh N, cháu H và cháu Q chỉ được bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa không được vượt quá 144 tháng lương tối thiểu.

Quan điểm thứ ba cho rằng, khoản 2 Điều 610 Bộ luật Dân sự quy định: “Ng­ười xâm phạm tính mạng của ngư­ời khác” có nghĩa là xâm phạm đến tính mạng của một người chứ không thể hiểu là xâm phạm đến tính mạng của nhiều người khác. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu là đối với một người bị xâm phạm tính mạng. Nếu có nhiều người bị xâm phạm tính mạng, thì cứ mỗi người bị xâm phạm đến tính mạng, những người thân thích được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu. Nếu có 3 ngư­ời bị xâm phạm tính mạng thì những ngư­ời thân thích đư­ợc hư­ởng tối đa không quá 180 tháng lư­ơng tối thiểu; ba người chết trong một gia đình mức độ tổn thất về tinh thần không thể như một người chết được. Giả thiết có ba người chết trong ba gia đình khác nhau thì người xâm phạm đến tính mạng cũng phải bồi thường khoản tiền cho mỗi người chết là không quá 60 tháng lương. Vậy có gì khác giữa ba người chết trong một gia đình với ba người chết trong ba gia đình, chưa kể ba người chết trong một gia đình sự đau thương mất mát về tinh thần còn cao hơn nhiều so với trường hợp ba người chết trong ba gia đình. Theo quan điểm này thì Toà án cấp phúc thẩm buộc bà Nguyễn Thị Th bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh N số tiền 63.000.000 đồng (350.000 đồng/01 tháng x 180 tháng) là đúng quy định của Bộ luật Dân sự.

Các quan điểm trên đều chứa đựng nhân tố hợp lý. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể thì chưa có quan điểm nào nêu ra được căn cứ xác đáng, chưa thể hiện đúng nội dung quy định của Bộ luật Dân sự, cũng như hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.

Trước hết cần khẳng định rằng: khoản tiền “bù đắp tổn thất về tinh thần” không phải là đại lượng để xác định những thiệt hại về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc người thân thích của họ bị tổn thất. Bởi lẽ, những tổn thất về tinh thần không thể xác định được một cách chính xác hoặc tương đối chính xác như thiệt hại về vật chất; mức độ tổn thất về tinh thần nhiều hay ít cũng không phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm; cũng không phụ thuộc vào hình thức lỗi của người xâm phạm (cố ý hay vô ý), mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị hiểu lầm của người bị thiệt hại hoặc người thân thích của nạn nhân.

Mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm cũng là một đại lượng khó xác định. Không thể đưa ra một đại lượng chung cho mọi trường hợp, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định. Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp một người bị chết nhưng những người thân thích của người đó không hề tỏ ra một chút đau thương, buồn phiền gì cả, thậm chí còn mong người đó chết cho “thoát nợ”. Ví dụ: Lê Hoàng N là một thanh niên hư hỏng từ Bð. Lớn lên, N lao vào con đường nghiện ngập, cờ bạc. Nhà chỉ có hai mẹ con nên bà H mẹ của N bất lực không dạy dỗ được H đành buông xuôi. Mỗi lần N xin tiền để cờ bạc, hút hít, nếu bà H không cho thì N chửi mắng bà thậm tệ. Có lần, N dùng dao doạ bà H nếu không đưa tiền thì sẽ giết. Mỗi lần, N đi đâu về nhà là bà H lo sợ tìm cách tránh mặt N. Bà H thường tâm sự với mọi người rằng, thằng N có chết đi thì tôi mới thoát nợ. Đã có lần, bà H định bỏ thuốc độc vào cơm cho N ăn nhưng bà lại sợ. Một hôm, có người báo cho bà H biết N thua bạc không có tiền trả đã đánh nhau với các con bạc khác và bị đâm chết. Biết N bị đâm chết, nhưng bà không khóc, cũng không buồn phiền mà tỏ ra yên tâm hơn vì từ nay bà được sống một cuộc sống bình yên, không nơm mớp lo sợ khi thấy N về nhà nữa. Trong trường hợp này, những tổn thất về tinh thần mà bà H phải chịu không đáng kể nếu không nói là không có. Ngược lại, có trường hợp tuy tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm không lớn, người xâm phạm thực hiện hành vi của mình do vô ý, nhưng người bị thiệt hại hoặc người thân thích của nạn nhân lại lo âu, buồn phiền tột độ, thậm chí bị suy kiệt về sức khoẻ không phục hồi được. Ví dụ: Bà Vũ Thị C là vợ liệt sĩ có người con gái là Đặng Thị Phương D. Sau khi chồng hy sinh, bà C ở vậy nuôi con. Chị D lớn lên trong vòng tay yêu thương của bà C. Năm 18 tuổi, Phương D thi đỗ vào trường Đại học Ngoại thương. Vì thương mẹ vất vả nên tuần nào Phương D cũng về thăm Mủ. Bà C thường tâm sự với bà con hàng xóm rằng, nếu cái D có bề gì thì chắc tôi cũng theo nó luôn. Bà chỉ yên tâm khi thấy D ở bên bà. Sang năm học thứ hai, Trường tổ chức cho sinh viên đi thăm quan và chuyến đi này, do lái xe ô tô vi phạm quy định về an toàn giao thông nên đã gây ra tai nạn làm 3 người chết trong đó có Phương D con gái bà C. Nhận được tin con chết, bà C như người mất trí, khóc than, bỏ ăn hàng tuần. Do quá buồn phiền, nên bà C bị mắc bệnh tâm thần dạng trầm cảm, gia đình phải đưa bà vào bệnh viện tâm thần điều trị. Trong trường hợp này, những tổn thất về tinh thần mà bà C phải chịu là rất lớn có bù đắp bao nhiêu cũng không đủ.

Như vậy, mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị hiểu lầm của người bị thiệt hại hoặc người thân thích của nạn nhân là căn cứ để quyết định mức tiền bù đắp tổn thất về tinh thần chứ không phải căn cứ vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Vì vậy, khi xác định mức tiền để buộc người gây thiệt hại bồi thường cho người bị thiệt hại hoặc người thân thích của nạn nhân phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể và nhất thiết phải xác định mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị hiểu lầm của người bị thiệt hại hoặc người thân thích của nạn nhân.

Vấn đề còn lại và cũng là vấn đề trọng tâm của bài viết này vẫn còn các ý kiến khác nhau là: Trong một gia đình cùng một lúc có nhiều người bị xâm phạm đến tính mạng (nhiều người chết) thì xác định mức bồi thường như thế nào? Như trên chúng tôi đã phân tích, không thể xác định một cách máy móc cứ một người bị xâm phạm đến tính mạng (một người chết) thì mức bù đắp tổn thất về tinh thần là “một suất” (không quá 60 tháng lương tối thiểu) còn hai người chết thì mức bù đắp tổn thất về tinh thần là “hai suất” (120 tháng lương tối thiểu), còn ba người chết thì mức bù đắp tổn thất về tinh thần là “ba suất” (180 tháng lương tối thiểu). v. v… mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm của người thân thích của các nạn nhân mà xác định mức bù đắp tổn thất về tinh thần nhưng không được quá mức mà Bộ luật Dân sự đã quy định. Trường hợp có nhiều người bị xâm phạm tính mạng nhưng chỉ có một người được hưởng tiền bù đắp tổn thất về tinh thần thì trước hết phải xác định mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm nhưng mức tối đa cũng không quá 60 tháng lương tối thiểu đối với  một người bị xâm phạm về tính mạng. Nếu có 3 người chết thì mức tối đa không quá 180 tháng lương tối thiểu. Chúng tôi đặt vấn đề như vậy là xuất phát từ quy định tại khoản 2 Điều 610 Bộ luật Dân sự: “người xâm phạm tính mạng của người khác” tức là, xâm phạm tính mạng của một người chứ không quy định “người xâm phạm tính mạng của nhiều người khác”. Mặt khác, việc một người có tới 3 người thân thích bị chết nếu các yếu tố khác tương tự như nhau thì thông thường mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm phải gấp 3 lần so với trường hợp chỉ có một người thân thích bị chết. Tuy nhiên, khi xác định khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho một người có 3 người bị xâm phạm tính mạng không nên đơn giản làm một phép tính số học: 1 người thì 60 tháng lương, 3 người thì lấy 60 x 3 = 180 tháng lương, làm như vậy thì quy định “bù đắp tổn thất về tinh thần” không còn ý nghĩa nữa.

Trở lại vụ án trên, việc Toà án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà Th bồi thường 12.600.000 đồng khoản tiền bù đắt tổn thất về tinh thần cho chị Ph và Toà án cấp phúc thẩm sửa quyết định này, buộc bà Th bồi thường cho chị Ph 180 tháng lương với số tiền 63.000.000 đồng, chúng tôi có một số ý kiến như sau:

Xác định khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, Toà án cấp sơ thẩm đã không xác định có bao nhiêu người thân thích của anh N, 2 cháu H và Q được bù đắp tổn thất về tình thần. Ngoài chị Ph thì còn có ai thuộc diện được bù đắp tổn thất về tinh thần hay không? Toà án cấp sơ thẩm lại xác định anh Vũ  Quốc  Đ là em trai của anh N là nguyên đơn dân sự trong vụ án là không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự. Nếu anh Đ có giấy uỷ quyền của chị Nguyễn Thị Ph (vợ của anh N) thì trong bản án phải viết: “nguyên đơn dân sự là chị Nguyễn Thị Ph uỷ quyền cho anh Đ tham gia phiên toà”. Tuy nhiên, trong vụ án này, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì ngoài chị Nguyễn Thị Ph (vợ anh N), còn có mẹ anh N (chưa xác định được họ tên) và con anh N là cháu Vũ Anh T (người chưa thành niên). Lẽ ra trong trường hợp này, Toà án cấp sơ thẩm phải xác định gia đình anh N có ba người được bù đắp tổn thất về tinh thần là: Chị Nguyễn Thị Ph đối với anh N, cháu H và Q; mẹ anh N đối với anh N và cháu Vũ Anh T đối với anh N. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm chỉ xác định chị  Nguyễn Thị Ph là người được bù đắp về tinh thần là chưa đầy đủ. Nếu Toà án cấp sơ thẩm xác định đầy đủ người được bù đắp tổn thất về tinh thần thì chắc chắn không quyết định có 36 tháng lương tối thiểu.

Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm đã không phát hiện được những sai sót của Toà án cấp sơ thẩm nên vẫn xác định nguyên đơn dân sự là anh Đ, đồng thời lại xác định, hễ cứ một người bị chết thì người thân thích của họ được bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần là 60 tháng lương, vậy gia đình chị Ph có 3 người chết thì được bồi thường “ba suất”, mà không xác định xem có bao nhiêu người được bù đắp tổn thất về tinh thần, không xác định mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm… của người được bù đắp tổn thất về tinh thần.

Theo khoản 2 Điều 610 Bộ luật Dân sự thì mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì Toà án mới quyết định, nhưng cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều không tiến hành để hai bên thoả thuận, mà quyết định ngay là chưa thực hiện đúng tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 610 Bộ luật Dân sự.

Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định buộc bà Th bồi thường tiền mất thu nhập của anh N được tính trong thời gian 06 tháng, mỗi tháng 1.500.000 đồng, với tổng số tiền 9.000.000 đồng là không đúng với quy định tại Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2005 về thu nhập thực tế bị mất. Theo quy định tại Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 1995 thì các khoản phải bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Không có quy định về khoản tiền mất thu nhập của anh N sau khi anh N bị chết.

Với những sai lầm nghiêm trọng của Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm nêu trên, Chánh án TAND tối cao đã kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm và Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án, huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm về phần bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần và khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần và khoản tiền mất thu nhập của anh N để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Trích dẫn từ: http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=19531307&article_details=1


Saturday, 9 June 2012

640. Death by China" bài 4: Sát thủ hacker đỏ.

Death by China đề cập đến hàng loạt kiểu “chết vì tay Trung Quốc” của thế giới, như chết vì thực phẩm độc hại, chiến tranh tiền tệ, vũ khí hủy diệt, tận thu tài nguyên thiên nhiên,…

Chương 10 - “Chết vì hacker đỏ” có lẽ là một trong các chương sách tập trung những lời chỉ trích gay gắt nhất nhằm vào Trung Quốc.

Theo hai tác giả Peter Navarro và Greg Autry, Trung Quốc đã xây dựng được một đội “hacker đỏ” chuyên nghiệp, mối đe dọa có sức phá hoại tương đương một mạng lưới điệp viên dày đặc, mà xét cho cùng có khi lại hiệu quả hơn sử dụng điệp viên. Bởi lẽ thay vì phải chi hàng tỉ đô la cho việc đào tạo gián điệp, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật cao thì hoàn toàn có thể làm mọi thứ chỉ qua mạng.

Đột nhập vào mạng của Lầu Năm Góc

Hai tác giả đưa ra một loạt lời buộc tội: “Những “tin tặc đỏ” đã xâm nhập vào mạng của NASA, Lầu Năm Góc, Ngân hàng Thế giới; tấn công Phòng Công nghiệp và An ninh trực thuộc Bộ Thương mại Mỹ dữ dội đến mức cơ quan này phải phá bỏ hàng trăm máy tính; xóa sạch mọi ổ cứng của dự án Máy bay chiến đấu Lockheed Martin F-35; và gần như ném bom rải thảm hệ thống kiểm soát không lưu của Không lực Hoa Kỳ”.

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ năm 2008, hacker đỏ của Bắc Kinh còn đột nhập vào máy chủ email của cả phe Obama lẫn phe McCain và Nhà Trắng. “Tại một trong những sự vụ trơ trẽn nhất trong lễ tân ngoại giao, máy tính của bộ trưởng Thương mại Mỹ và một số nhân viên đã bị đánh cắp, bị cài đầy phần mềm gián điệp, nhân một chuyến công du của bộ trưởng tới Bắc Kinh”.

Cuốn sách đưa ra những lời buộc tội có thể khiến người đọc… ù tai. Chẳng hạn, nói về một chiêu thức hành nghề của tin tặc thời hiện đại: Thời xưa, ngành tình báo phải sử dụng tới mỹ nhân kế như Mata Hari để moi thông tin từ “đối tác”. Thời nay, “ngoài những gái điếm và các phòng khách sạn đầy “bọ” (thiết bị nghe trộm - PV) ở Thượng Hải, các điệp viên Trung Quốc còn tặng cho con mồi của họ thẻ nhớ đầy virus, thậm chí cả camera kỹ thuật số. Theo Cục Tình báo MI5 của Anh, một khi được gắn vào máy tính của nạn nhân, những thiết bị này sẽ cài đặt ngay phần mềm cho phép hacker giành quyền kiểm soát”.

Làm hacker cũng giống một ngôi sao nhạc rock

Death by China đưa ra một số lý giải, có lẽ khá đơn giản, về mục tiêu hành động của tin tặc Trung Quốc. Cuốn sách cho rằng hacker đỏ muốn làm gián đoạn hoạt động của các trang web ở phương Tây, bằng cách đánh sập hoặc tấn công từ chối dịch vụ. Ngoài ý muốn phá hoại, hacker đỏ cũng nhắm đến việc ăn cắp những thông tin có giá trị như số thẻ tín dụng, thông tin cá nhân hoặc hơn thế: Bí quyết công nghệ, bí mật thương mại, hồ sơ mời thầu và dự thầu, tình hình tài chính của một công ty nào đó, rồi thông tin về vũ khí, quân sự.

Nhưng đó mới là bề nổi, tức là mục tiêu mà các hacker hướng đến. Còn bản chất của việc họ hành động như thế lại là chuyện khác. Navarro và Autry trích dẫn một trao đổi trên diễn đàn hội thảo về an ninh thông tin của hacker Trung Quốc. Hỏi: “Khi nào chúng ta tiến hành hack?”. Đáp: “Nếu đó là vấn đề có ảnh hưởng tới chúng ta trên bình diện quốc tế, thì khi ấy chúng ta sẽ huy động các thành viên tổ chức tấn công”.

Câu trả lời hé lộ một phần nguyên nhân của hiện tượng tin tặc: Đó là tinh thần dân tộc bị đẩy tới mức cực đoan ở một bộ phận người dân Trung Hoa. Death by China trích lời một chuyên gia về tin tặc Trung Quốc, ông Scott Henderson, nói rằng ở nước này, làm hacker “cũng giống như làm ngôi sao nhạc rock”, đó là “một sự nghiệp mà có đến một phần ba trẻ em tuổi đi học ở Trung Quốc mơ ước”.

Có bàn tay chính quyền phía sau?

Phần gây tranh cãi nhất của chương này có lẽ nằm ở những khẳng định rằng chính quyền Trung Quốc đứng sau các chiến dịch tấn công trên mạng. Lập luận của hai tác giả cuốn sách là: Không thể có chuyện hacker hoạt động mà không có bàn tay dẫn dắt của Bắc Kinh, nhất là khi chính quyền Trung Quốc vốn có chế độ kiểm soát Internet ngặt nghèo nhất thế giới. Không hacker nào có thể thoát khỏi tay chính quyền một khi cơ quan an ninh và cảnh sát đã muốn bắt và xử lý. Ví dụ một hacker ở tỉnh Hồ Bắc can tội đột nhập vào website của cơ quan nhà nước và thay ảnh chân dung một quan chức bằng ảnh cô gái mặc bikini. Người này nhanh chóng bị bắt và kết án 1,5 năm tù. Vụ việc đã được đăng tải trên tờ Nhân Dân Nhật Báo.

Trong khi đó thì rất nhiều vụ tin tặc nghiêm trọng khác lại không được điều tra. Navarro và Autry dẫn ra một loạt trường hợp hacker Trung Quốc tấn công mạng nước ngoài và hành động của họ hoàn toàn có thể làm phương hại quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và nước nạn nhân, vậy mà họ vẫn không bị trừng trị. Ví dụ như khi Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi đi thăm ngôi đền chiến tranh Yasukuni, hacker Trung Quốc đã xóa website của ngôi đền này, ghi đè lên đó hàng chữ: “Gái đái lên toilet Yasukuni”. Còn khi Liên hoan Phim Melbourne ở Úc chiếu phim tài liệu về một nhà lãnh đạo người Duy Ngô Nhĩ, hacker Trung Quốc đánh phá website của liên hoan phim dữ dội đến mức ban tổ chức không bán được vé qua mạng. Một số nhóm tin tặc như Liên đoàn Hắc khách Trung Quốc (China Hacker Union) được cho tồn tại và hoạt động công khai, thậm chí mở cả văn phòng.

Bạn đọc có thể thấy lập luận buộc tội của Death by China chưa đủ thuyết phục, vì dù sao đi nữa “án tại hồ sơ” song cuốn sách lại không chỉ ra được một bằng chứng mạnh mẽ nào cho thấy mối liên hệ giữa chính quyền và hacker Trung Quốc, chẳng hạn một chủ trương bằng văn bản chính sách…

Tuy vậy, việc cảnh giác với những tin tặc bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan vẫn luôn là điều cần thiết, nhất là khi Việt Nam có nguy cơ là đích ngắm của tội phạm mạng: Năm 2010, một báo cáo của Công ty An ninh mạng McAfee cho thấy 58% tên miền cấp 1 .vn đã trở thành mục tiêu của hacker. Tháng 8-2011, McAfee xác định “cơ quan chính phủ Việt Nam nằm trong số 72 tổ chức chính phủ trên thế giới là mục tiêu của đợt tấn công lớn nhất mà tin tặc tiến hành để lấy dữ liệu mạng, được McAfee phát hiện”. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao khi đó, bà Nguyễn Phương Nga, cho biết: “Chúng tôi rất quan tâm đến những thông tin mà McAfee đưa ra. (…) Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực hợp tác cùng cộng đồng quốc tế phòng, chống các hành vi phá hoại an ninh mạng”.

Tháng 5-1999, trong chiến dịch NATO tấn công Nam Tư, máy bay Mỹ ném bom trúng Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade, làm chết ba công dân Trung Hoa. Hàng ngàn email từ Trung Quốc đã “dội bom” làm sập website của Nhà Trắng. Tin tặc cũng chiếm website của Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh, chèn lên trang chủ dòng chữ “đả đảo bọn man rợ”. Tháng 3-2008, hãng tin CNN (Mỹ) đưa tin về bạo loạn ở Tây Tạng. Ngay sau đó website của CNN bị phá và ghi đè dòng chữ “Tây Tạng đã, đang và sẽ luôn luôn là một phần của Trung Quốc”. (Wikipedia)

ĐOAN TRANG tổng thuật

Kỳ cuối: Sữa melamine - “vũ khí hủy diệt hàng loạt”

Đón đọc trên Pháp Luật TP.HCM Chủ nhật 17-6.

Saturday, 2 June 2012

639.Hai hệ thống pháp luật common law và civil law

Hai hệ thống pháp luật common law và civil law

Theo Cafe luật's: Hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law là hai hệ thống pháp luật lớn và điển hình trên thế giới. Hai hệ thống này có những điểm đặc thù, tạo nên những "dòng họ" pháp luật, với những đặc trưng pháp lý riêng. Mặc dù ngày nay pháp luật ở các nước thuộc hai hệ thống này cũng có nhiều thay đổi theo hướng bổ khuyết những mặt hạn chế, tích hợp nhiều nội dung mới, nhưng về cơ bản sự thay đổi ấy vẫn không làm mất đi những đặc thù riêng, triết lý riêng, từng tạo nên "bản sắc" của hai hệ thống pháp luật này.

1. Hệ thống pháp luật lục địa (Continetal Law), hệ thống Luật dân sự (Civil Law), hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Pháp - Đức:

Đây là hệ thống pháp luật có nền tảng bắt nguồn từ hệ thống pháp luật của Pháp, Đức và pháp luật của một số nước lục địa Châu Âu. Trong đó pháp luật của Pháp, Đức là quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn tới pháp luật của các nước khác trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp luật của các nước này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của Luật La Mã. Ngày nay, phạm vi ảnh hưởng của hệ thống Civil Law tương đối rộng bao gồm các nước Châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Italia…), Quebec (Canada), Louisiana (Mỹ), Nhật Bản và một số nước Châu Mỹ Latinh (Brazin, Vênêduêla…).

Về mặt lịch sử hình thành, Khi những bộ tộc Đức (Germanic) xâm lăng các đế quốc Tây Âu, một số qui định của luật La Mã đã được thay thế bằng luật bộ tộc Đức. Tuy nhiên, vì tinh thần của luật Đức là căn cứ vào yếu tố cá nhân, không căn cứ vào yếu tố lãnh thổ, nên dân chúng của đế quốc La Mã cũ cùng con cháu họ vẫn được phép sử dụng luật La Mã. Giáo hội Công giáo La Mã cũng góp phần quan trọng trong việc duy trì luật pháp La Mã cũ vì giáo luật, tức là luật dùng trong các Toà án của giáo hội, đã được xây dựng theo luật La Mã. Vào thế kỷ thứ 11 và 12, khi tìm được nguyên văn Bộ Dân luật Corpus Juris Civilis, các học giả bắt đầu nghiên cứu và giải thích, hiện đại hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với tình hình xã hội thời đó . Họ mở trường luật ở Paris, Oxford, Prague, Heidelberg, Copenhague, họ làm luật sư cho giáo hội, cho các vua chúa, và cho các vùng lãnh thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo chung theo một nội dung , luật gia của các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ Dân Luật của nước họ xây dựng trên nền tảng chung là luật La Mã.

Ngày nay, các học giả luật so sánh cho rằng hê thống Civil law phải được chia nhỏ thành 3 nhóm khác nhau:

  • + Civil Law của Pháp: ở Pháp, Tây Ban Nha, và những nước thuộc địa cũ của Pháp;
  • + Civil Law của Đức: ở Đức, Aó, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cộng hòa Trung Hoa (Lưu ý: Luật Trung Hoa và Luật Việt Nam hiện nay theo truyền thống học thuật, thì được xếp vào hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhưng trên thực tế nhiều qui định về dân sự, về tố tụng, về hệ thống Toà án lại mang nhiều đặc điểm của Civil Law);
  • + Civil Law của những nước Scandinavian: Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Ailen. Luật của Bồ Đào Nha và Italia cũng chịu ảnh hưởng của Pháp, Đức, nhưng những bộ luật dân sự thế kỷ 19 thì gần hơn với Bộ luật Napoleon và những bộ luật dân sự thế kỷ 20 thì lại giống với luật dân sự của Đức. Về đào tạo luật, thì những nước này lại giống với hệ thống pháp luật của Đức hơn. Luật ở những nước này thường được gọi là hệ thống luật có tính chất pha tạp (hybrid nature).

Luật ở Hà Lan hay dân luật ở Hà Lan thì rất khó để xếp vào một nhóm nào, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Luật dân sự của Hà Lan có ảnh hưởng không nhỏ đến luật tư hiện đại của nhiều quốc gia. Điển hình là pháp luật dân sự của Nga hiện hành chịu ảnh hưởng trực tiếp từ luật của Hà Lan.

2. Hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông, hệ thống Thông luật (Common Law), hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Anh - Mỹ:

Pháp luật Anh - Mỹ là pháp luật ra đời ở Anh, sau này phát triển ở Mĩ và những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ trước đây. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ những tập quán (custom), hay còn được gọi là hệ thống pháp luật tập quán, hay hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ (precedents/ judge made law).

Common Law hiện nay cần phải được hiểu theo 3 nghĩa khác nhau:

- Thứ nhất, đó là một hệ thống pháp luật lớn trên thế giới dựa trên truyền thống hệ thống pháp luật của Anh;

- Thứ hai, trên phương diện nguồn luật, án lệ (Case law) của Common Law được tạo ra bởi tòa án, phân biệt với đạo luật của Nghị viên;

- Thứ ba, trên phương diện hệ thống Tòa án, Tòa án và các án lệ của Common Law cũng khác biệt với Tòa án và các án lệ của Equity Law.

Về lịch sử hình thành, nguồn gốc của hệ thống luật này bắt đầu từ năm 1066 khi người Normans xâm chiếm Anh quốc và Hoàng Đế William bắt đầu tập trung quyền lực vào tay triều đình mới. Thuật ngữ luật chung ( Common Law ) xuất phát từ quan điểm cho rằng các tòa án do nhà vua lập ra, áp dụng các tập quán chung ( Common Custom) của vương quốc, trái ngược với những tập tục luật pháp địa phương áp dụng ở các miền hay ở các tòa án của điền trang, thái ấp phong kiến.

Các nguyên tắc bền vững của luật chung đã được tạo ra bởi ba tòa án được vua Henry II (1133 - 1189) thành lập là Tòa án Tài chính (Court of Exchequer) để xét xử các tranh chấp về thuế; Tòa án thỉnh cầu phổ thông ( Court of Common Pleas) đối với những vấn đề không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhà vua; và Tòa án Hoàng Đế ( Court of the King’s Bench) để giải quyết những vụ việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi của Hoàng gia.

Thực chất, trước đó dưới thời của Hoàng đế William, những tập quán của Anh ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa Đức ở Châu Âu lục địa. Tòa án lúc đó là những người dân được triệu tập để cùng giải quyết tranh chấp và nếu không xử được người ta dùng phương pháp thử tội (ordeal) bằng việc bắt bị cáo cầm vào một miếng sắt nung đỏ, hoặc cầm một viên đá đã được ngâm trong nước sôi, hoặc hình thức thề độc. Nếu vết thương đó lành sau một thời gian xác định, anh ta sẽ bị tuyên là vô tội và ngược lại.

Năm 1154, Vua Henry II đã tạo ra một hệ thống luật chung và sáng tạo ra một hệ thống tòa án thống nhất đầy quyền năng, ông đưa các thẩm phán từ tòa án Hoàng gia đi khắp nơi trong nước và sưu tầm, chọn lọc cách thức giải quyết các tranh chấp. Sau đó những thẩm phán này sẽ trở về thành Luân đôn và thảo luận về những vụ tranh chấp đó với các thẩm phán khác. Những phán quyết này sẽ được ghi lại và dần trở thành án lệ (precedent), hay theo Tiếng Latin là stare decisis. Theo đó, khi xét xử thẩm phán sẽ chịu sự ràng buộc bởi những phán quyết đã có từ trước đó. Thuật ngữ “Common Law” bắt đầu xuất hiện từ thời điểm đó. Như vậy trước khi Nghị viện ra đời trong lịch sử pháp luật của Anh, Common Law đã được áp dụng trên toàn bộ vương quốc trong vài thế kỉ.

Đến thế kỷ thứ 15, khi đó xuất hiện một thực tiễn pháp lý là khi luật “Common Law” không đủ sức để giải quyết một vụ việc, và người đi kiện cho rằng cách giải quyết của Common Law là chưa thỏa đáng. Thí dụ, trong một vụ kiện về đất đai, người đi kiện cho rằng khoản tiền bồi thường mà theo cách giải quyết của Common law là không đủ bồi thường cho hành vi mà người xâm phạm đã cướp không của họ, họ yêu cầu rằng người vi phạm này còn phải bị đuổi và phải trả lại phần đất lấn chiếm đó. Chính điều này là cơ sở để xuất hiện hệ thống mới là hệ thống pháp luật công bình (system of equity), đồng thời xuất hiện thiết chế Tòa công bình, do viên Tổng chưởng lý (Lord Chancellor) đứng đầu. Về bản chất thì luật công bình vẫn chiếm ưu thế hơn so với luật Common Law trong trường hợp có sự xung đột. Điều này đã được nêu trong Đạo luật hệ thống tư pháp (Judicature Acts) năm 1873 và 1875.

Ngày nay bên cạnh án lệ với tư cách là một loại nguồn pháp luật đặc thù của hệ thống Common Law, luật thành văn và các loại qui tắc khác cũng được coi là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật này. Khi xét xử những nước theo hệ thống pháp luật Common Law thường căn cứ vào hai câu hỏi lớn, đó là câu hỏi sự thật khách quan (question of fact) và câu hỏi về luật - theo nghĩa rộng(question of law). Trong bất cứ vụ việc nào, ngày nay khi xét xử các thẩm phán của Common Law vẫn dựa cả vào án lệ, luật viết và những căn cứ thực tế để xét xử.

3. Những khác biệt:

Những đặc điểm khác nhau cơ bản của hai hệ thống này được thể hiện rõ nét nhất ở 4 tiêu chí: nguồn gốc của luật (origin of law); tính chất pháp điển hóa (codification); thủ tục tố tụng (Procedure); Vai trò của thẩm phán và luật sư (Role of the Jurists)

3.1. Về nguồn gốc của luật:

Trong pháp luật lục địa, các quan hệ tài sản gắn liền với những nguyên tắc của Luật dân sự La Mã - Tập hợp những qui định pháp luật làm nền tảng cho Luật dân sự La Mã của Hoàng đế Justinian (Justinian’s Corpus Juris Civilis). Nói đến sự ảnh hưởng của Luật La Mã, Mác đã từng nhận xét rằng pháp luật các nước Châu Âu không thể đem lại những hoàn thiện đáng kể cho Luật La Mã cổ đại mà chỉ sao nó lại một cách cơ bản. Pháp luật Anh - Mỹ không ảnh hưởng sâu sắc và gắn bó mật thiết với những nguyên tắc của luật dân sự La Mã như pháp luật lục địa. Tuy nhiên cả hai hệ thống pháp luật này đều ít nhiều đều thừa hưởng sự giàu có và tính chuẩn mực của thuật ngữ pháp lý La Mã. Ví dụ : stare decisis (Phán quyết của Tòa án trước đó phải được công nhận như tiền lệ); pacta sunt servandas (Hợp đồng phải được tôn trọng).

Sự ảnh hưởng của các học thuyết pháp lý, với tư cách là một nguồn luật thì ở Common Law có xu hướng áp dụng nhiều hơn so với các nước theo truyền thống Civil law.

3.2.Về tính chất pháp điển hóa

Quan niệm tiếp cận pháp luật của hai hệ thống pháp luật này là khác nhau. Hệ thống Civil law quan niệm luật pháp là phải từ các chế định cụ thể (All law resides in institutions), còn hệ thống Common law lại quan niệm luật pháp được hình thành từ tập quán (All law is custom).

Ưu điểm rõ nét của các Bộ luật trong Civil Law là tính khái quát hóa, tính ổn định cao (certainty of law). Pháp luật Common Law dựa chủ yếu trên nguồn luật là tiền lệ pháp (Stare decisis. Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người sáng tạo ra pháp luật một cách gián tiếp. Ưu điểm rõ nét nhất của các tập quán là tính cụ thể, linh hoạt và phù hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội.

Pháp luật lục địa chia thành luật công (public law) và luật tư (private law), còn pháp luật Anh - Mỹ khó phân chia. Công pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, những quan hệ mà một bên tham gia là các cơ quan nhà nước. Còn tư pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến các cá nhân, tổ chức khác.

3.3. Về thủ tục tố tụng

Hệ thống pháp luật lục địa phát triển hình thức tố tụng thẩm vấn, tố tụng viết (inquisitorial system/ written argument), còn Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ phát triển hình thức tố tụng tranh tụng (Case system/ oral argument). Tuy nhiên cũng không hoàn toàn đúng nếu khẳng định rằng hệ thống Civil Law không hề áp dụng việc suy đoán vô tội (presumption of innocence).

Khi xét xử, các nước theo hệ thống Common Law rất coi trọng nguyên tắc Due process. Đây là nguyên tắc được nhắc đến trong tu chính án thứ 5 và 14 của Hoa Kỳ. Nội dung chính của nguyên tắc này nói đến ba yêu cầu chính:

yêu cầu bình đẳng của các đương sự trong việc đưa ra chứng cứ trước Toà (equal footing); yêu cầu qui trình xét xử phải được tiến hành bởi một Thẩm phán độc lập có chuyên môn, cùng một bồi thẩm đoàn vô tư, khách quan (fair trial and impartial jury); yêu cầu luật pháp phải được qui định sao cho một người dân bình thường có thể hiểu được hành vi phạm tội (Laws must be written so that a reasonable person can understand what is criminal behavior). Hệ thống Civil Law dựa trên qui trình tố tụng thẩm vấn (inquisitorial system) nên trong các vụ án hình sự, thẩm phán căn cứ chủ yếu vào Luật thành văn, kết quả của cơ quan điều tra, và quá trình xét xử tại Toà để ra phán quyết.

Toà án ở các nước theo truyền thống Common Law được coi là cơ quan làm luật lần thứ hai, hay cơ quan sáng tạo ra án lệ (The second Legislation). Ngược lại ở các nước theo truyền thống Civil Law, chỉ có Nghị viện mới có quyền làm luật, còn Toà án chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật.

Ở các nước theo truyền thống Common Law đa phần các hiệp định quốc tế không phải là một phần của luật quốc nội/ luật quốc gia (domestic law). Chúng chỉ có thể được toà án áp dụng khi các hiệp định quốc tế đã được nội luật hoá bởi cơ quan lập pháp. Các nước theo truyền thống Civil Law thì khác, ví dụ như ở Thụy Sĩ, các điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp như là một phần của luật quốc nội, vì vậy các Toà án có thể trực tiếp áp dụng các điều ước quốc tế khi xét xử.

3.4. Về vai trò của luật sư và thẩm phán, chứng cứ:

Pháp luật Anh - Mỹ do án lệ là nguồn cơ bản, đặc biệt với truyền thống coi trọng chứng cứ nên luật sư, thẩm phán rất được coi trọng. Pháp luật lục địa do văn bản qui phạm pháp luật là nguồn chủ yếu, đồng thời do thông lệ "án tại hồ sơ" - quá trình điều tra phụ thuộc phần lớn vào kết quả của cơ quan điều tra do vậy luật sư ban đầu ít được coi trọng như các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Thẩm phán ở các nước Civil Law chỉ tiến hành hoạt động xét xử mà không được tham gia hoạt động lập pháp, họ không được tạo ra các chế định, các qui phạm pháp luật.

Thẩm phán của Civil law được đào tạo theo một qui trình riêng, họ thường trước đó không phải là các luật sư. Nhưng ở Common Law thì khác, thẩm phán hầu hết đều được lựa chọn từ những luật sư rất danh tiếng;

Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau của hai hệ thống pháp luật này có rất nhiều, có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng cơ bản vẫn là do tiến trình phát triển của cách mạng tư sản khác nhau quyết định. Cách mạng tư sản ở các nước đã diễn ra với tính chất, mức độ triệt để là khác nhau, có nước cách mạng chống phong kiến diễn ra triệt để, có nước không triệt để.

[1].

Nói đến hệ thống pháp luật tư sản thì hai hệ thống pháp luật trên là hai hệ thống pháp luật lớn, tuy nhiên bên cạnh hai hệ thống pháp luật này còn có sự tồn tại của hệ thống pháp luật các nước Hồi giáo, hệ thống pháp luật Bắc Âu …

Từ cuối thế kỷ thứ 20, các nước theo hệ thống Civil Law đã có nhiều thay đổi. Ví dụ không còn chỉ dựa đơn thuần vào Bộ Dân luật , mà ở các nước này, các án lệ, các văn bản dưới luật, các nghiên cứu học lý tư pháp cũng đã được xem là những nguồn luật quan trọng. Các bộ dân luật cũng được bổ sung, sửa đổi, nhất là ở Đức (còn gọi tắt là BGB).

NMT

---------------------------

[1] Ví dụ cách mạng tư sản Anh không triệt để, nên pháp luật Anh khác với pháp luật Pháp. Ngoài ra ta cũng thấy nhà nước tư sản Mỹ cách xa Châu Âu nên không chịu ảnh hưởng của cách mạng tư sản ở Châu Âu, nên pháp luật của Mỹ cũng khác với pháp luật Châu Âu nói chung.


Đặc điểm nổi bật của Common Law và Civil Law dưới góc độ so sánh

Lời mở đầu

Nói đến sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật thế giới không thể không nhắc đến thông luật (Common law) và luật lục địa (Civil law). Đây là hai hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới hiện nay còn được áp dụng và có ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia các châu lục (trong đó có Việt Nam). Chính vì thế việc tìm hiểu và so sánh hai hệ thống pháp luật này là rất cần thiết trong việc nghiên cứu pháp luật quốc tế nói chung và nghiên cứu pháp luật Việt Nam nói riêng.

Có nhiều cách để phân loại các họ pháp luật trên thế giới tùy vào quan điểm, tiêu chí của từng người.

Tuy nhiên trong bài tiểu luận chỉ đưa ra ba yếu tố cơ bản nhất để phân loại các họ pháp luật trên thế giới: lịch sử, cấu trúc hệ thống và nguồn. Từ đó, hy vọng sẽ góp phần tạo nên cái nhìn tổng quan, khái quát nhất về đặc điểm nổi bật của hai hệ thống pháp luật: Common law và Civil law dưới góc độ so sánh. Qua đó có được cái nhìn chính xác và khách quan hơn về vị trí pháp luật Việt Nam và những vấn đề còn tồn tại để có biện pháp cụ thể, kịp thời sửa đổi và định hướng phát triển trong tương lai.

Giải thích một số thuật ngữ

  • 1. Quy phạm pháp luật (QPPL): là một loại qui phạm XH (các qui tắc mang tính xuất phát điểm và khuôn mẫu về hành vi các chủ thể), quan trọng là nó có tính pháp lý như: tính cưỡng chế chung cho mọi cá nhân, tổ chức, được ban hành theo thủ tục, trình tự mà pháp luật qui định. QPPL là phần tử cấu thành nhỏ nhất của hệ thống pháp luật.
  • 2. Văn bản QPPL: là tập hợp các QPPL được ban hành theo những hình thức và thủ tục nhất định dưới dạng thành văn.
  • 3. Nguồn luật: là hình thức biểu hiện sự tồn tại của QPPL.
  • 4. Hệ thống cấu trúc pháp luật: là tổng thể các QPPL có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định luật và các ngành luật.
  • 5. Tập quán pháp: là những cách xử sự giữa con người với con người, hình thành và tồn tại từ đời này qua đời khác, được một cộng đồng XH thừa nhận và tự nguyện tuân theo.
  • 6. Tiền lệ pháp (án lệ): là các văn bản, quyết định của tòa án, cơ quan pháp luật, lời giải thích các QPPL của thẩm phán được thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự.
  • 7. Pháp điển hóa: là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền không những tập hợp các QPPL theo một trình tự nhất định, loại bỏ các qui phạm lỗi thời mà còn xây dựng những qui phạm mới thay thế cho các qui phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống được phát hiện, sửa đổi, bổ sung, nâng cao hiệu lực QPPL... từ đó ra đời các QPPL mới.

Chương một: Common law

Common law hay còn được gọi bằng các tên khác: luật chung, luật Anglo - Saxon, luật Anh Mỹ hay thông luật.

Trên thế giới hiện nay có 3 cách hiểu về Common law:

  • - Loại luật có nguồn gốc từ hoạt động của các Tòa án Hoàng gia Anh, áp dụng chung cho toàn bộ nước Anh thay thế cho luật địa phương (local law). Theo nghĩa này, Common law được coi là một bộ phận của hệ thống pháp luật nước Anh, phân biệt với Luật công bằng (Equity law).
  • - Loại luật có nguồn gốc án lệ, tức là bao gồm cả Equity law, được gọi chung là Case law, dùng để phân biệt với luật thành văn (Status law).
- Một dòng họ luật cơ bản, được coi là lớn thứ hai trên thế giới (sau hệ thống Civil law) hiện còn được áp dụng tại các nước nói tiếng Anh với một vài ngoại lệ và ảnh hưởng tới nhiều nước đã hoặc vẫn có mối liên hệ với nước Anh về chính trị hay kinh tế như: Mỹ, Canada, Australia... và các nước khác trong khối Thịnh vượng chung (châu Á, châu Phi, châu Mỹ).

Chương 1: Common Law

Cả ba cách hiểu này đều có thể chấp nhận được vì về cơ bản không làm thay đổi bản chất của hệ thống Common law.

I. Lịch sử hình thành và phát triển

Common law có nguồn gốc từ nước Anh vì thế lịch sử của Common law gắn liền với lịch sử Common law của nước Anh.

Theo René David và John E.C.Brierley thì lịch sử pháp luật Anh chia làm 4 giai đoạn chính:

1. Giai đoạn trước năm 1066: Anglo - Saxon

  • - Từ thế kỉ I đến thế kỉ V, đế chế La Mã thống trị nước Anh song không để lại dấu tích gì đáng kể, kể cả về mặt pháp luật.
  • - Thời kì này, nước Anh chia làm nhiều vương quốc nhỏ với các hệ thống pháp luật mang tính địa phương, chủ yếu là ảnh hưởng từ các qui tắc tập quán và thực tiễn của các bộ lạc người Giecmanh (Germanic tribes).
  • - Khi các bên có tranh chấp thường áp dụng tập quán địa phương để phân xử. Những người già sẽ đứng ra giải thích chính xác các tập quán địa phương áp dụng cho các tranh chấp đó.

2. Giai đoạn 1066 - 1485: Common law ra đời

  • - Năm 1066 người Norman đánh bại người Anglo - Sacxon, thống trị nước Anh. William (người Pháp) lên ngôi vua, mở ra một thời kì mới trong lịch sử nước Anh và mở đầu cho giai đoạn hình thành Common law. Ông vẫn duy trì tập quán pháp của Anh. Nhưng trên thức tế lại cố làm cho mọi người quên đi ảnh hưởng của quá khứ và xây dựng một chế độ phong kiến tập quyền nhằm nắm độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội kể cả lĩnh vực tư pháp.
  • - Thời Henry II là giai đoạn phát triển của một hệ thống Common law có tính chất quốc gia (a national Common law). Ông gửi các thẩm phán hoàng gia tới nắm tòa án ở các nơi. Trong nhiều thập kỉ, họ đã phải cạnh tranh với các tòa án ở địa phương: tòa án của tỉnh (county), tòa án giáo hội, tòa án của lãnh chúa phong kiến... Đến cuối thế kỉ XIII, các Tòa án Hoàng gia thắng thế trong việc xét xử vì chất lượng xét xử tốt và trình độ chuyên môn cao. Dần dần, các tòa án địa phương lấy án lệ của Tòa án Hoàng gia làm khuôn mẫu. Common law bắt đầu chiếm vị trí quan trọng và thu hút nhiều công việc pháp lí, mặc dù trong một thời gian dài đã phải cạnh tranh với nhiều hệ thống pháp lí:
    • luật tập quán địa phương, luật thương gia hay các qui tắc tập quán phong kiến...
    • Và cũng không thể phủ nhận rằng Common law đã vay mượn nhiều vấn đề từ các hệ thông pháp lí nói trên để đạt được sự tiến bộ to lớn (1).

Thời kì này cần phải nhắc đến sự ra đời và phát triển của hệ thống writ (gọi là trát hay tạm dịch là lệnh gọi ra tòa). Một người muốn kiện lên tòa án Hoàng gia phải đến Ban thư kí của nhà vua (chancery), đóng phí và được cấp writ. Writ nêu rõ cơ sở pháp lí mà bên nguyên đưa ra cho vụ việc của mình.

Có thể nói hệ thống writ là trái tim của Common law, no writ no remedy (tạm dịch là không có writ thì không có chế tài). W.S.Holdsworth, một nhà sử học nổi tiếng về Common law đã tuyên bố về vai trò chính yếu của hệ thống writ: "Common law đã phát triển xung quanh hệ thống writ của hoang gia. Chúng đã tạo thành cơ sở để xây đắp nên tòa nhà của nó".

Hệ thống writ mang đặc trưng của pháp luật Common law, chứng tỏ vai trò quan trọng của các thủ tục tố tụng. Đó cũng là lí do các luật gia Common law không tìm hiểu nội dung thực định phức tạp trong luật tư của Luật La Mã (họ cho rằng luật La Mã chỉ giúp cho việc tìm kiếm giải pháp đúng đắn cho tranh chấp nhưng chưa cho phép thắng kiện).

3. Giai đoạn 1485- 1832: phát triển Equity law

  • - Equity law (luật công bằng) được hình thành dựa trên cơ sở coi nhà vua là biểu tượng của công lí.
  • - Trong trường hợp Common law không đáp ứng được cho bên bị thiệt hại tức là không đảm bảo được tính công bằng thì một công chức của tòa án (chancellor) sẽ trình vụ việc lên nhà vua. Thông qua các đơn từ gửi tới nhà vua và phán quyết của các chancellors, dẫn đến việc hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai gọi là luật công bằng (Equity law hay Chancery justice). Học thuyết về Equity law mang nhiều yếu tố của luật La Mã vì các chancellors thường là các mục sư bị ảnh hưởng của luật giáo hội (cannon law)- một loại luật có cơ sở gần gũi với luật La Mã (2).

4. Giai đoạn 1832- nay: giai đoạn hiện đại

  • - Đây là giai đoạn cải cách và phát triển pháp luật Anh với sự xuất hiện của nhiều luật, tòa án hành chính, văn bản hành chính. Đặc biệt là việc gia nhập EEC năm 1972 có tác động đến sự phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
  • - Ngày nay, các luật gia Anh ngày càng quan tâm và có nhiều học hỏi từ hệ thống Civil law.

* Common law được mở rộng ra thế giới thông qua 2 con đường.

  • Thứ nhất là chinh phục thuộc địa (chủ yếu).
  • Thứ hai là các nước chủ động tiếp thu, chấp nhận một cách tự nguyện với việc thiết lập và thúc đẩy quan hệ chính trị, thương mại với Anh.

II. Cấu trúc hệ thống

Khác với Civil law, Common law không phân chia thành luật công và luật tư vì các lí do sau đây:

  • - Sự phân biệt này ít có ý nghĩa trong thời kì phong kiến ở Anh, giai đoạn đầu của sự phát triển Common law, vì các quyền công và tư được xác định thông qua quyền lợi về tài sản, nhưng không có sự phân biệt giữa sở hữu tài sản và các sơ quan công theo kiểu Civil law.
  • - Có một hệ thống tòa án trở thành nơi xem xét các hoati động lập pháp, hành pháp, kể cả trong tranh chấp tư. Do vậy không có sự phân biệt hoàn toàn về quyền lực theo kiểu Civil law.
  • - Các học giả Mỹ ban đầu đã có khuynh hướng lờ đi sự phân biệt đó và xem như không cần thiết cho xu hướng tổng hợp các quyết định phán xử (3).

III. Nguồn luật

1. Án lệ (case law)

- Án lệ là nguồn chính của các nước Common law, phân biệt với các nước Civil law coi pháp luật thành văn (status law) làm nguồn chính. Hệ thống án lệ này sẽ được phát triển qua các vụ việc được tòa án xét xử.

Việc sử dụng án lệ làm nguồn chính cho thấy đặc điểm tư duy pháp lí của Common law: đó là chủ nghĩa kinh nghiệm (empiricism) hay lối suy luận qui nạp đi từ trường hợp cá biệt đến cái tổng quát, nguyên tắc. Hệ quả tích cực của nó là làm thành một hệ thống Common law mở, gần gũi với đời sống thực tế, tạo nên tính chủ động sáng tạo, mềm dẻo và linh hoạt trong tư duy pháp luật. Đồng thời cũng hạn chế sự phát sinh của luật (trong trường hợp nhiều vụ án tương tự nhau có thể cùng áp dụng một án lệ).

Tuy nhiên việc sử dụng án lệ là nguồn chính cũng có mặt tiêu cực. Nguyên nhân là vì án lệ là một nguồn mà cần phải liên tục thay đổi. Điều này vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật: đó là tính ổn định (dù chỉ ở mức tương đối). Có 2 lí do chính cần phải đổi mới hệ thống án lệ. Thứ nhất là do bản thân án lệ ngay từ đầu đã bất hợp lí nên thay đổi là cần thiết. Thứ hai là do cuộc sống thay đổi liên tục và ngày càng phức tạp. Án lệ có thể đã tồn tại trong một khoảng thời gian nhưng những qui phạm tiềm ẩn trong án lệ không còn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội.

- Đặc điểm của án lệ:

  • + Phải đáp ứng được điều kiện về nguyên tắc, đòi hỏi của thực tiễn đời sống và pháp luật. Nó khiến cho pháp luật gần gũi hơn với đời sống thực tế.
  • + Phải đảm bảo tính chắc chắn và ổn định của hệ thống pháp luật.
  • + Nguyên tắc stare decisis (học thuyết án lệ): tranh chấp tương tự cần đạt kết quả pháp lí tương tự. Thẩm phán phải tuân thủ các phán quyết đã được tuyên trước đó, đặc biệt đối với những phán quyết của tòa án cấp cao hơn. Điều này góp phần tạo nên một hệ thống pháp luật thống nhất, tránh được hiên tượng một vụ án mà tòa án các cấp khác nhau đưa ra chế tài khác nhau.
  • + Tồn tại từ lâu phù hợp với vụ án cần xét xử. Thẩm phán chính là người tìm ra và áp dụng án lệ. Tuy nhiên trên thực tế công việc này hết sức khó khăn vì tìm ra một án lệ phù hợp trong cả một hệ thống án lệ đồ sộ để áp dụng một cách thỏa đáng không phải là dễ.
  • + Chỉ có những bản án có tính chất bắt buộc mới trở thành án lệ và có tính pháp lí. Còn các bản án khác chỉ có tính gợi ý, tham khảo. Ví dụ như ở Anh, chỉ có Tòa án tối cao mới được phép ban hành án lệ, các tòa án cấp dưới phải tuân theo. Các án lệ bắt buộc được viết trong Law Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports...tức là nhìn ở khía cạnh nào đó là đã được pháp điển hóa. Đây có thể coi là một minh chứng cho sự xích lại gần nhau của 2 hệ thống Common law và Civil law.

2. Lẽ phải

  • - Lẽ phải cũng là một nguồn luật thể hiện nét đặc thù của Common law.
  • - Trong trường hợp một vụ án phát sinh không có tiền lệ pháp phù hợp, không có luật thành văn hay tập quán pháp thì thẩm phán chính là ngưới tạo ra luật pháp bằng cách sử dụng lẽ phải thông qua việc:
  • + Viện dẫn các tập quán không có giá trị bắt buộc hoặc bản án không phải là án lệ hoặc các obiter dicta (bình luận, nhận xét của thẩm phán).
  • + Viện dẫn các án lệ nước ngoài (Mỹ, Canada...) thậm chí cả án lệ của các nước Civil law.
3. Một số nguồn luật khác như: học thuyết pháp luật, tập quán pháp... đặc biệt là các văn bản pháp luật ngày càng được sử dụng nhiều ở các nước Common law như là hệ quả của việc học tập hệ thống luật lục địa.

* Có thể thấy vai trò của các thẩm phán và luật sư tại các nước Common law là rất quan trọng:

  • Thẩm phán vừa là người sáng tạo ra luật pháp (người ta thường gọi Common law là hệ thống pháp luật được tạo nên bởi các thẩm phán (judge - made law)), vừa là người giải thích và áp dụng lật pháp, kiểm soát các thủ tục tố tụng rất được coi trọng ở các nước Common law. Tuy nhiên trong giải thích các văn bản pháp luật, các thẩm phán coi đó là chỉ thị của cấp trên phải tuân theo song lại hạn chế tối đa việc làm xáo trộn hệ thống án lệ. Đó là do truyền thống là nhằm tới việc cung cấp giải pháp cho từng vụ việc cụ thể hơn là tạo ra các công thức pháp lí nói chung nhằm điều chỉnh các quan hệ trong tương lai như ở hệ thống Civil law.

Thẩm phán được lựa chọn từ một tổ chức gồm các luật sư thực hành (barrister). Những luật sư thực hành được phân cấp và thẩm phán chỉ được lựa chọn từ nhứng luật sư thực hành cấp cao hơn, giỏi và giàu kinh nghiệm (thường là có từ 10 năm kinh nghiệm trở lên).

Luật sư tại các nước Common law đặc biệt rất được coi trọng. Do thủ tục tố tụng mang tính tranh tụng: các bên tham gia váo thủ tục tố tụng được coi là có địa vị pháp lí bình đẳng với nhau, thẩm phán chỉ có vai trò người trung gian phân xử, không tham gia vào quá trình tranh tụng nhưng lại là người đưa ra phán xét cho vụ án. Họ chủ yếu Vì vậy bên nguyên hay bên bị, bên nào muốn thắng kiện thì hoàn toàn dựa vào tài biện hộ của luật sư bên đó.

Chương hai: Civil law

Dân luật được gọi theo nhiều tên khác nhau: luật La Mã (chỉ nguồn gốc), luật châu Âu lục địa (chỉ ra khu vực hình thành và phát triển giai đoạn đầu) hay Civil law (hệ thống luật thành văn).

Civil law là hệ thống luật lớn nhất trên thế giới, trải khắp từ châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Ý...) tới châu Mỹ (tỉnh Québec của Canada, bang Lousiana của Mỹ) châu Phi và nhiều nước châu Á. Civil law được coi là biểu thị sự phát triển văn minh của hệ thống pháp luật.

I. Lịch sử hình thành và phát triển

Civil law là một trong những hệ thống có lịch sử hình thành phát triển lâu đời nhất so với các hệ thống pháp luật khác trên thế giới.

Một trong những đặc điểm nổi bật của Civil law là ảnh hưởng của luật La Mã xuyên suốt quá trình hình thành phát triển. Lịch sử hình thành phát triển của Civl law bắt nguồn từ sự hình thành phát triển của luật La Mã.

1. Giai đoạn từ thế kỉ V TCN đến thế kỉ VI SCN

- Sự ra đời của luật La Mã được đánh dấu bằng sự ra đời của luật 12 Bảng (449 TCN). Luật 12 Bảng chủ yếu là các tập quán Latinh và vay mượn luật pháp Hi Lạp cổ đại. Đó là các qui tắc cơ bản chứ chưa phải là các văn bản pháp luật hoàn chỉnh. Tuy nhiên đây được coi là pháp điển sớm nhất của luật La Mã.

- Năm 528, hoàng đế Justinian I (527-565), với ý đồ kết hợp giá trị pháp lí truyền thống và những thành tựu đương thời, đã ra lệnh tập hợp, củng cố, hệ thống hóa và điển chế hóa luật La Mã và Tập hợp các chế định luật dân sự Coprus Juris Civils ra đời.

2. Giai đoan từ thế kỉ XI đến thế kỉ XVIII

- Từ thế kỉ V đến thế kỉ X, luật La Mã ở châu Âu bị lu mờ, thậm chí bị tầm thường hóa bởi các tộc người Giecmanh xâm chiếm lãnh thổ La Mã.

- Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIII, "thời kì phục hưng" của luật La Mã được đánh dấu bằng sự kiện Bộ tổng luật Corpus Juris Civils được nghiên cứu và đem vào giảng dạy tại các trường đại học tổng hợp châu Âu. Trường đại học tổng hợp Bologna (Ý) là trung tâm đầu tiên giảng dạy luật La Mã ở châu Âu cuối thế kỉ XI.

Quá trình nghiên cứu và giảng dạy đã làm "sống lại" và dần hoàn thiện luật La Mã. Kéo theo đó là sự ra đời của các trường phái mà mỗi trường phái nhấn mạnh tới và có một phương pháp riêng trong bình luận và giải thích luật La Mã (4). Đó là : trường phái của các luật sư (glossators), trường phái của các nhà bình luận (post - glossators), trường phái của các nhà nhân văn (humanistes), trường phái của các nhà pháp điển hiện đại (pandectists), trường phái pháp luật tự nhiên (natural law) trong đó trường phái pháp luật tự nhiên đóng vai trò quan trọng nhất.

Thuyết pháp luật tự nhiên cho rằng luật tồn tại sẵn có trong tự nhiên mà những người làm luật nên cố gắng tuân theo. Trường phái này không coi pháp luật như một hiện tượng tự nhiên mà là một sản phẩm của lí trí, phù hợp với điều kiện XH. Trường phái này khởi xướng và hình thành xu hướng thay đổi nhận thức về vai trò pháp luật trong khoa học pháp lí, bác bỏ lối nhận thức kinh viện, máy móc.

Trường phái này có 2 sự thành công lớn nhất:

+ Khẳng định tầm quan trọng của việc phân chia luật công (Ius publicum) và luật tư (Ius privatum) trong đó nhấn mạnh việc phát triển pháp luật công sẽ là cơ sở cho phát triển pháp luật tư tức là bảo đảm các quyền tự nhiên của con người cũng như tự do của mỗi cá nhân.

+ Nâng kĩ thuật lập pháp lên pháp điển hóa. Tư tưởng của trường phái pháp luật tự nhiên là biến pháp luật được giảng dạy tại các trường đại học thành pháp luật thực định. Tư tưởng này được đưa vào XH làm các nhà cầm quyền thấy cần phải xem xét lại toàn bộ hệ thống pháp luật. Từ đó dẫn đến pháp điển hóa. Tuy nhiên việc pháp điển hóa các bộ luật ở các nước khác nhau là khác nhau. Điều này dẫn đến việc Civil law được áp dụng linh hoạt, mềm dẻo tại các nước (khác với Common law được áp dụng một cách đồng bộ).

Tuy nhiên pháp điển hóa - kết quả của trường phái luật tự nhiên cũng có mội số hạn chế như : coi trọng pháp luật quốc gia mà bỏ qua ý tưởng luật là qui tắc ứng xử XH và có bản chất siêu quốc gia ; làm xuất hiện trường phái thực chứng pháp luật (legal positivist) đánh giá quá cao pháp điển hóa, chỉ coi văn bản qui phạm pháp luật là nguồn và không công nhận tư tưởng luật tự nhiên (5).

3. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nay

- Các nguyên tắc và nền tảng của luật La Mã tiếp tục được kế thừa phát triển ở giai đoạn Cách mạng tư sản cuối thế kỉ XVIII cùng với tên tuổi của các nhà tư tưởng như : Montesquieu (1689 - 1775), Rousseau (1712 - 1778)...

- Sang thế kỉ XIX, hệ thống pháp luật châu Âu diễn ra xu hướng pháp điển hóa mạnh mẽ. Nổi bật nhất là sự ra đời của Bộ luật Dân sự Pháp ( Bộ luật Napoleon 1804). Đây là bộ luật dung hòa giữa pháp luật La Mã và pháp luật phong kiến, tập quán và luật thành văn, quan điểm tôn giáo và trào lưu phi tôn giáo (6).

Bộ luật Dân sự Napoleon được coi là kinh điển cho các nước Civil law vì:

  • + Hầu như mọi quan hệ dân sự chủ yếu trong XH đều được bộ luật điều chỉnh.
  • + Được coi là tạo ra cuộc cách mạng về kĩ thuật lập pháp : các chương, điều,qui phạm pháp luật được sắp xếp theo từng chế định, trình bày rõ ràng và logic ; các khái niệm, nguyên lí, nguyên tắc trong bộ luật được nêu ngắn gọn, chuẩn xác và đầy đủ.

- Ngày nay, Civil law được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, có những học tập từ những hệ thống pháp luật khác trên thế giới, đặc biệt là từ hệ thống Common law.

  • Civil law được mở rộng ra thế giới thông qua 2 con đường. Thứ nhất là mở rộng thuộc địa (chủ yếu). Thứ hai là do sự học hỏi văn minh pháp lí phương Tây của các nước.

II. Cấu trúc hệ thống

- Civil law đặc biệt nhấn mạnh phân chia các ngành luật, đặc biệt là phân chia thành luật công và luật tư.

Luật công điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan nhà nước và cá nhân hoặc giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Đặc điểm của luật công là:

  • + QPPL mang tính tổng quát.
  • + Đối tượng điều chỉnh: lợi ích công.
  • + Phương pháp điều chỉnh: mệnh lệnh, thể hiện ý chí đơn phương của các cơ quan có thẩm quyền.
  • + Mang tính bất bình đẳng, cơ quan nhà nước có đặc quyền.

Luật tư điều chỉnh quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Đặc điểm của luật tư là:

  • + Đối tượng điều chỉnh: lợi ích, tự do cá nhân.
  • + Phương pháp điều chỉnh: thỏa thuận ý chí.
  • + Mang tính chất công bằng hơn, bảo vệ được lợi ích của công dân.

- Nguyên nhân Civil law phân chia luật công và luật tư là do các luật gia quan niêm rằng:

  • + Quan hệ giữa người bị trị và người bị trị là quan hệ đặc thù cần phải có QPPL riêng để điều chỉnh.
  • + Lợi ích công và tư là không thể so sánh.

Đây cũng chính là thành công của xu hướng pháp điển hóa.

III. Nguồn luật

1. Luật thành văn (qui phạm pháp luật, hiến pháp, điều ước quốc tế, bộ luật, đạo luật...)

- Luật thành văn là nguồn chính của Civil law trong đó quan trọng nhất là các qui phạm pháp luật.

Việc sử dụng luật thành văn làm nguồn chính cho thấy đặc điểm tư duy pháp lí của Civil law: đó là chủ nghĩa duy lí (rationalism) hay tư duy theo lối diễn dịch, đi từ cái phổ quát đến trường hợp cá biệt. Phương pháp tư duy này bắt nguồn từ viêc coi trọng pháp điển hóa, khái quát các trường hợp của cuộc sống. Nó dẫn tới hệ quả quan trọng là làm thành một hệ thống pháp luật đóng, kém linh động, giới hạn các thẩm phán trong việc áp dụng các văn bản pháp luật có sẵn, từ đó dẫn đến sự ỷ lại, bị động và kém sáng tạo trong hoạt động xét xử.

- Đặc điểm của qui phạm pháp luật :

  • + Được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật và thường là do cơ quan lập pháp có thẩm quyền ban hành. Các thẩm phán trong quá trình xét xử có nhiệm vụ áp dụng các qui phạm pháp luật mà không được tự tạo ra qui phạm pháp luật tức là không được tham gia vào hoạt động lập pháp. Phán quyết của tòa không tạo thành tiền lệ pháp.
  • + Nguyên tắc sự thống trị của luật (règle de droit) : hầu hết các qui phạm pháp luật được xây dựng sao cho mang tính khái quát nhất, toàn diện nhất, chính xác nhất để thẩm phán có thể tìm thấy ngay trong qui phạm pháp luật giải pháp cho mọi tranh chấp nảy sinh có liên quan, không cần phải giải thích.

Tuy nhiên các nhà lập pháp thì không thể khái quát toàn bộ cuộc sống. Vì thế mà khi đưa ra giải pháp cho trường hợp cụ thể thì không thể áp dụng ngay một QPPL mà cần phải suy xét nó trong cả một hệ thống. Điều này tạo nên rắc rối rất lớn, có thể xảy ra trường hợp các QPPL mâu thuẫn nhau trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH.

2. Một số nguồn luật khác như : tập quán pháp, các học thuyết pháp luật... đặc biệt là án lệ ngày càng được sử dụng nhiều hơn do tính mềm dẻo và thực tiễn của nó.

  • Có thể thấy vai trò của các thẩm phán ở các nước Civil law là rất quan trọng còn vai trò của các luật sư thì ít nổi trội hơn so với các nước trong hệ thống Common law:
  • Thẩm phán có quyền điều tra xét hỏi, đặc biệt trong các vụ án hình sự và quyết định những nhân chứng, bằng chứng được đưa ra trước tòa. Tức là ở đây các thẩm phán dựa nhiều vào sự thật trên thực tế hơn là sự thật từ các luật sư.Điều này đảm bảo được tính công bằng hơn.

Ở các nước Civil law có nghề thẩm phán riêng, có trường đào tạo thẩm phán riêng một cách qui củ chứ không phải là lựa chọn thẩm phán từ các luật sư giàu kinh nghiệm như các nước Common law. Ví dụ như trình tự đào tạo thẩm phán ở Pháp như sau : sau khi học 4 năm đại học luật, phải dự tuyển vào trường Thẩm phán Bordeaux (Ecole national de la magistrature). Nếu được phải học trong 31 tháng, trong khi học được hưởng lương. Sau khi tốt nghiệp, trải qua một giai đoạn thực tập quan trọng sẽ được bổ nhiệm vào vị trí xét xử hoặc công tố.

  • Vai trò của các luật sư tại các nước Civil law ít được coi trọng. Do thủ tục tố tụng là điều tra xét hỏi nên các thẩm phán có toàn quyền quyết định, hoàn toàn làm chủ phiên tòa. Vì thế vai trò của các luật sư bị lu mờ. Họ ít có tiếng nói tại tòa, thậm chí phiên tòa kết thúc trước khi luật sư có mặt. Trong khi thiên chức của luật sư là bào chữa và bảo vệ thân chủ mình tại tòa. Đây là sự vô lí tồn tai trong hệ thống Common law mà cần phải được điều chỉnh.

Tổng kết

Bất kì một vấn đề nào cũng có tính hai mặt của nó. Nhìn tổng quan cả Common law và Civil law đều có những mặt tích cực và tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà hai hệ thống này trở thành hai hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới. Ngày nay các nước Common law có xu hướng tìm hiểu và áp dụng nhiều hơn mô hình Civil law (nhất là trong vấn đề nguồn luật) và ngược lại. Sự học tập có chọn lọc cái hay và hạn chế cái dở của từng mô hình là cần thiết, góp phần làm thành một hệ thống pháp luật thống nhất, hoạt động có hiệu quả, vừa đảm bảo tính ổn định vừa mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với biến đổi nhanh chóng của đời sống XH.

Việt Nam được coi nằm trong hệ thống Civil law, đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH. Việc chúng ta gia nhập WTO, không chỉ thúc đẩy sự hội nhập về kinh tế văn hóa mà còn thúc đẩy sự hội nhập về pháp luật.

Truyền thống Civil law từng tồn tại ở Việt Nam trong một thời gian dài và được chúng ta dễ dàng tiếp nhận bởi lối tư duy gần gũi. Người Việt chúng ta coi trọng văn bản pháp luật, thích ngữ nghĩa và lý thuyết. Tuy nhiên thiết nghĩ chúng ta cũng nên học tập mô hình Common law đặc biệt là cách tiếp cận vấn đề mới mẻ của các luật gia Common law tức là đi từ cái riêng biệt đến cái chung. Lối tư duy này tạo nên sự linh hoạt, chủ động và nhạy bén hơn trong đời sống pháp luật Việt Nam. Kết hợp với tính khuôn mẫu và nguyên tắc của lối tư duy Civil law sẽ góp phần tạo nên hệ thống pháp luật Việt Nam cân bằng và hoàn thiện hơn.

Trên thực tế, pháp luật Việt Nam cũng có những học tập từ mô hinh Common law. Lấy ví dụ như án lệ trong pháp luật thực định Việt Nam không còn là vấn đề quá mới mẻ. Ở Việt Nam không có văn bản pháp luật nào qui định rõ án lệ là một nguồn chính thức. Tuy nhiên thực tế, chúng ta đang dần dần coi trọng hơn vai trò của án lệ và án lệ cũng được áp dụng nhiều hơn với tư cách là một nguồn tham khảo.

Luật pháp và những vấn đề liên quan đến pháp luật ở Việt Nam là những vấn đề mà tất cả chúng ta không riêng gì các luật gia còn tốn nhiều thời gian và công sức để đổi mới và cải thiện nó nếu muốn pháp luật Việt Nam thực sự có chỗ đứng trong hệ thống pháp luật quốc tế. Trong hành trình ấy, rất cần đến công tác nghiên cứu chuyên sâu các hệ thống pháp luật trên thế giới để vừa có những học hỏi vừa định hướng cho sự phát triển của pháp luật Việt Nam.



679.0 Hướng dẫn cài đặt AD RMS server ( Active Directory Rights Management Services) có trong Windows Server 2012.

Nguồn: https://mdungblog.wordpress.com/2018/06/21/simple-guide-huong-dan-cai-dat-ad-rms-windows-server-2012-r2/   Hôm nay mình xin giới thiệ...