Showing posts with label Kinhte. Show all posts
Showing posts with label Kinhte. Show all posts

Thursday, 31 October 2019

672.0 Giới trẻ đang được startup “trợ giá”

Giới trẻ đang được startup “trợ giá”

Thư Kỳ
Thứ Tư,  30/10/2019, 09:06 


(TBKTSG) - Mô hình các startup (doanh nghiệp khởi nghiệp bằng một giải pháp công nghệ) tìm cách phá vỡ một cách thức kinh doanh truyền thống nào đó bằng ứng dụng công nghệ đã đem lại nhiều thay đổi trong lối sống của mọi người, nhất là giới trẻ. Gót chân Achilles hiểm hóc nhất của mô hình này là lỗ lã triền miên bởi các startup chọn con đường “trợ giá” cho giới trẻ để chiêu dụ họ - một con đường sẽ sớm phải chấm dứt.
Một nhà báo của tờ Atlantic kể bạn ông mời đi ăn nhẹ ở một quán rượu tại New York, trước đó đã dùng ứng dụng Seated để đặt chỗ. Điều phi lý nằm ở chỗ sau khi ăn sơ và gọi hai ly cocktail, ứng dụng Seated tặng hai người một phiếu 30 đô la Mỹ có thể sử dụng tại nhiều chỗ bán lẻ khác. Ông viết ông không tài nào hiểu được một ứng dụng cứ mỗi lần chiêu dụ được khách đặt chỗ cho các tiệm ăn đối tác lại phải xùy tiền thưởng ra, còn gấp nhiều lần tiền hoa hồng họ nhận được. Đây là kế hoạch kinh doanh của kẻ muốn tiêu cho hết các khoản đầu tư chứ startup kiểu gì.
Tiền thưởng của Seated lớn quá nên gây ngạc nhiên chứ thật ra hàng chục startup khác cũng đang “trợ giá” cho người dùng, chủ yếu là giới trẻ, để giữ chân họ, chiêu dụ họ mặc cho những khoản lỗ khổng lồ các startup này phải chịu đựng. Bài viết trên tờ Atlantic ví von: “Nếu bạn thức dậy trên một tấm nệm Casper, dùng Peloton để tập thể dục trước khi ăn sáng, đi Uber đến văn phòng tại một tòa nhà thuê của WeWork, trưa thì dùng DoorDash để gọi thức ăn giao tận nơi, chiều dùng Lyft để về nhà rồi ăn tối qua ứng dụng Postmates, bạn đã tương tác với 7 doanh nghiệp năm nay sẽ lỗ tổng cộng gần 14 tỉ đô la”.
Casper là doanh nghiệp muốn lật đổ thị trường nệm truyền thống bằng loại nệm đóng hộp và các chiêu khuyến mãi như dùng thử 100 ngày, không hài lòng khách có quyền trả lại và được hoàn tiền 100%. Peloton là doanh nghiệp sản xuất các dụng cụ tập thể dục tại nhà như xe đạp có gắn màn hình kết nối để chiếu các video hướng dẫn tập luyện. Uber và Lyft là các hãng taxi công nghệ; DoorDash và Postmates - giao thức ăn; WeWork - không gian làm việc chung. Tất cả đều đang lỗ.
Các startup khác như Lime (cho thuê xe), Wag (dịch vụ dắt chó đi dạo), Blue Apron (cung cấp nguyên liệu kèm công thức để khách tự nấu ăn ở nhà)... cũng chưa từng có đồng lãi nào, trị giá có cái giảm đến 50% sau khi được tung hô lên tận mây xanh là startup thành công. Dù họ không thưởng tiền cho khách đậm như Seated, họ vẫn chủ yếu là cung cấp dịch vụ dưới giá thành nên mặc nhiên đang trợ giá cho giới trẻ có lối sống khác các thế hệ trước nhờ các dịch vụ giá rẻ này.
Mới nhìn qua, tưởng đâu mô hình này đang chuyển dịch tiền bạc từ giới tài phiệt giàu có chuyên rót tiền đầu tư vào các quỹ mạo hiểm hòng lập lại các thành công của Facebook hay Apple hay Microsoft sang các bạn trẻ thu nhập thấp hơn thế hệ cha anh. Nhưng thực tế, các quỹ cũng chỉ đầu tư mồi ban đầu, sau khi các startup được rót tiền nên được định giá tăng vọt, họ cũng đã chuyển một phần lớn cổ phần sang cho kẻ đến sau, có thể là các quỹ hưu trí, các nhà đầu tư nhỏ để chốt lời. Kẻ thua thiệt nhất vẫn là một thị trường ngổn ngang, mô hình cũ bị phá vỡ tan nát, mô hình mới chỉ tồn tại khi được rót vốn chưa biết bao giờ thì phá sản.
Theo một nghiên cứu của Cục Thống kê Mỹ, người nhận các khoản trợ cấp giá chủ yếu là giới trẻ, thu nhập cao, có học thức cao, sống ở đô thị. Khảo sát cho biết người dùng Internet trong nhóm có thu nhập gia đình cao nhất (trên 100.000 đô la/năm) có khả năng là khách của nền kinh tế chia sẻ cao gấp đôi người dùng Internet trong nhóm có thu nhập gia đình thấp nhất (dưới 50.000 đô la/năm). Đây là một sự mỉa mai vì người nghèo chủ yếu làm cho các doanh nghiệp truyền thống, mô hình kinh doanh bị phá vỡ bởi các startup; còn người giàu lại tiếp tục được hưởng lợi từ dòng tiền trợ cấp cho các startup này.
Lập luận dai dẳng nhất ủng hộ cho các startup thua lỗ cho rằng lỗ chỉ là trước mắt còn về lâu về dài khi mô hình mới đã chiếm trọn thị trường, họ sẽ bắt đầu có lãi. Tờ Atlantic cũng đưa ra một ví dụ để bác bỏ lập luận này. Ví dụ bạn đăng ký làm thành viên một doanh nghiệp chuyên cung cấp nguyên liệu kèm theo công thức gửi về tận nhà để bạn nấu ăn ở nhà, mỗi tháng bạn trả 100 đô la lệ phí tham gia. Thấy tiện lợi quá bạn tái đăng ký thêm một tháng nữa, rồi một tháng nữa nhưng đến tháng thứ tư, bạn nghĩ mình đã thành thạo các công thức, nguyên liệu cũng biết mua từ siêu thị, thôi thì cắt đăng ký để tiết kiệm 100 đô la.
Thế là doanh nghiệp startup này phải đi tìm khách mới bằng cách quảng cáo trên các mạng xã hội, cứ cho là để kiếm thêm 100 khách, ngân sách quảng cáo lên đến 50.000 đô la, tức mỗi khách mới phải tốn đến 500 đô la. Giả dụ startup này được bơm vốn từ các quỹ mạo hiểm, họ đủ sức để quảng cáo mạnh, lượng khách cứ tăng đều; thị trường sẽ rất ấn tượng trước các biểu đồ cho thấy mức tăng trưởng không gì ngăn nổi này. Nhưng người trong cuộc mới biết bỏ ra 500 đô la kiếm thêm 1 khách, sau 4 tháng, trả 400 đô la họ ra đi - tức mỗi khách sẽ lỗ 100 đô la; càng thêm nhiều khách, càng lỗ nặng.
Thật ra đây không phải là ví dụ nữa; chính doanh nghiệp startup Blue Apron khai khi chuẩn bị lên sàn họ tốn 460 đô la để kiếm thêm 1 khách mới trong khi chỉ thu về chưa đến 400 đô la từ mỗi khách. Chẳng lạ gì sau khi lên sàn giá cổ phiếu Blue Apron sụt đến 95%! Thiết nghĩ mô hình startup sẽ phải trải qua những thay đổi rất căn cơ trước khi nó có thể tìm được lối đi bền vững. Đó là bỏ tham vọng vươn nhanh chóng ra toàn cầu; phải tăng giá dịch vụ, chấm dứt thủ thuật trợ giá để dụ dỗ khách; và chấm dứt luôn thói quen dùng các mỹ từ đao to búa lớn để miêu tả về mình y như kẻ cứu rỗi của nền kinh tế kết nối hay nền kinh tế 4.0.

Sunday, 15 April 2018

667. Ai nuôi Nhà nước? - Trần Đức Nguyên

 Ai nuôi Nhà nước?
Thử làm một cuộc thăm dò ở nước ta xem bao nhiêu phần trăm công dân biết rằng Nhà nước do mình nuôi bằng thuế?...
Trong một dịp đi họp ở Mỹ cách đây trên 10 năm, tôi đến một cửa hàng mua đôi giày da. Sau khi chọn và đi thử một đôi có giá 96 USD, tôi trả tiền bằng tờ bạc 100 USD. Người bán hàng nói còn thiếu, tôi chỉ vào biển ghi giá thì được giải thích là giá này còn phải cộng thêm 10% thuế mà người tiêu dùng đóng cho Nhà nước. Sang Canada, tôi cũng thấy cách tính thuế tương tự đối với hàng hóa và dịch vụ.
Tôi nêu vấn đề với các chuyên gia kinh tế sở tại: Ở Việt Nam, thuế hàng hóa được thu ngay khi hàng xuất xưởng và được gọi là thuế gián thu (thu gián tiếp) vì thu từ doanh nghiệp sản xuất hàng nhưng thực chất tiền thuế ấy đánh vào người tiêu dùng. Thay vì thu rải rác khi có người mua hàng, nay thu gọn một nơi, một lúc khi hàng xuất xưởng chẳng tiện hơn sao?
Người đối thoại với tôi giải thích về cách thu thuế của họ như sau: Trước hết đây là thuế mà người tiêu dùng đóng nên khi nào hàng được tiêu thụ thì mới tính thuế; nếu thu trước từ người sản xuất mà ở khâu bán lẻ, hàng không bán được thì sao? Lẽ thứ hai, chúng tôi muốn người dân biết rõ và luôn luôn nhớ là mình đóng thuế nuôi Nhà nước; thuế thu nhập cá nhân cũng nhắc nhở điều đó, nhưng mỗi tháng hoặc mỗi quý chỉ một lần nộp, còn thuế hàng hóa, dịch vụ thì hầu như ngày nào dân cũng đóng. Chính vì thế nên giá hàng khi niêm yết là giá chưa có thuế hàng hóa để người mua tự tính thêm.
Đối với thuế mà người tiêu dùng phải nộp, cách thu trực tiếp hay thu gián tiếp hợp lý và có lợi hơn, tôi không phải chuyên gia về thuế nên không dám so sánh, song thấy rất ấn tượng về cái lẽ thứ hai mà họ giải thích. Nguồn thu của ngân sách nhà nước là do dân đóng góp dưới nhiều hình thức; viện trợ không hoàn lại của nước ngoài chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ; thu từ tài nguyên cũng là nguồn thu do tài sản thuộc sở hữu toàn dân mang lại; bội chi ngân sách được bù đắp bằng các khoản vay trong và ngoài nước, rút cuộc cũng do dân trả nợ trong các năm sau. Ở nước ta, kinh phí hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị-xã hội cũng dựa vào ngân sách nhà nước toàn bộ hoặc phần lớn, nên có thể nói dân ta nuôi cả hệ thống chính trị.
Cách thu thuế như ở Mỹ và Canada nhằm thường xuyên nhắc nhở người dân hiểu và nhớ rằng mình nuôi Nhà nước là một biện pháp thiết thực tôn trọng người dân, cổ vũ dân chủ. Người dân ý thức rõ là bộ máy nhà nước do dân nuôi nên bộ máy này phải phục vụ dân; người nuôi bộ máy có quyền đòi hỏi các cơ quan công quyền phải thực hiện đúng quy chế công khai, minh bạch và được dân giám sát.
Thử làm một cuộc thăm dò ở nước ta xem bao nhiêu phần trăm công dân biết rằng Nhà nước do mình nuôi bằng thuế? Có thể nói chắc là tỷ lệ không cao. Chúng ta thường thấy các khẩu hiệu treo trên đường phố hoặc viết chữ to ở bảng đầu làng, đầu ngõ tuyên truyền việc đóng thuế, nhưng hầu như chỉ nói về nghĩa vụ (có khi thêm vinh dự) của người dân khi nộp thuế; hiếm khi thấy khẩu hiệu giúp cho dân hiểu rõ đóng thuế là nuôi Nhà nước. Gần đây, một số cửa hàng lớn, khách sạn, nhà hàng, công ty dịch vụ... ghi rõ trong phiếu thu tiền phần giá hàng hóa, dịch vụ và phần thuế mà người tiêu dùng phải nộp. Tuy nhiên đối với đông đảo nhân dân, nhất là ở nông thôn, không mấy người biết rằng khi mua hàng (từ hàng tiêu dùng đến máy móc, vật liệu... sản xuất trong nước và nhập khẩu), người mua đã đóng thuế cho Nhà nước trong giá mua hàng.
Không chỉ người dân thường mà không ít người trong bộ máy công quyền cũng không ý thức được rằng mình được dân nuôi. Ở nước ta mỗi khi người dân có được thành tựu, hoặc được được hưởng một lợi ích nào đó thì thường nói là ơn Đảng, ơn Chính phủ.
Chúng ta biết rằng một chủ trương, chính sách đúng của Đảng và Nhà nước được tổ chức thực hiện tốt thì đem lại lợi ích cho dân. Muốn hoạch định đúng chủ trương, chính sách, phải dựa vào trí tuệ, kinh nghiệm và ý kiến đóng góp của dân. Trong mọi lĩnh vực hoạt động, nhất là về kinh tế, xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, dù quan trọng đến đâu cũng chỉ vạch hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của dân, không thể trực tiếp tạo ra kết quả cụ thể trong sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nếu không có sự đồng thuận và tích cực thực hiện của dân.
Như vậy, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách phải do nỗ lực hoạt động của dân. Ngay cả khi Nhà nước đầu tư trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, doanh nghiệp của Nhà nước để cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho người dân, thì nhà nước cũng sử dụng các nguồn lực của dân để làm việc đó, và trong nhiều trường hợp, chất lượng, hiệu quả lại không bằng người dân tự tổ chức làm.
Về vai trò quyết định của dân đối với sự phát triển của đất nước, mọi người đều công nhận và thường xuyên nhắc tới. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động thực tế có không ít trường hợp điều đó bị lãng quên mà chỉ thấy sự lãnh đạo và quản lý của Đảng, của Nhà nước.
Một ví dụ: báo cáo trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ đầu tháng 5 vừa qua về tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2009 có câu mở đầu như sau: “Nhờ sự chỉ đạo tập trung quyết liệt của Chính phủ và sự nố lực của các ngành, các cấp, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong 4 tháng có thấp hơn cùng kỳ năm trước, nhưng đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực”. Như vậy, những cố gắng của dân không được tính đến. Cách suy nghĩ này cũng khá phổ biến trong nhiều cơ quan và cả trên báo chí.
Chúng ta biết rằng khi nền kinh tế đứng trước nguy cơ suy giảm và lạm phát do những yếu kém bên trong và chịu tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính - kinh tế trên thế giới, thì dân và doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân, là người gặp nhiều khó khăn nhất, phải vật lộn rất gay go mới có thể tồn tại và phát triển. Những chính sách và biện pháp tình thế của Chính phủ nếu đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tế thì chỉ có thể làm giảm bớt khó khăn và tạo thêm điều kiện cho việc làm ăn của dân và doanh nghiệp; người dân và doanh nghiệp phải vận động tự thân là chính. Đây chính là tiềm năng to lớn nhất cho sự phát triển.
Mọi người đều đánh giá nền nông nghiệp và nông dân nước ta trong năm 2008 và đầu năm 2009 đã duy trì tốt đà tăng trưởng, góp phần quan trọng ổn định tình hình kinh tế, tạo thuận lợi cho các ngành và lĩnh vực hoạt động khác. Trong thành tựu của nông nghiệp, có phần nhờ tác động của các chính sách và đầu tư từ nhiều năm nay của Nhà nước; song nói riêng về các biện pháp kích cầu để vượt qua khó khăn, ngăn chặn suy giảm kinh tế thì đến tháng 4 năm nay Chính phủ mới có chính sách ưu đãi đối với nông dân và việc thực hiện còn phải có thời gian. Vì vậy đối với một số chuyển biến tích cực của nền kinh tế trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nếu chỉ thấy “sự chỉ đạo tập trung kiên quyết của Chính phủ và sự nỗ lực của các ngành, các cấp” thì đó là cách nhìn rất phiến diện vì không đánh giá đúng những cố gắng rất to lớn của dân và doanh nghiệp.
Nhận thức sâu sắc vai trò và tiềm năng to lớn của dân là nền tảng về tư duy để hoạch định chính sách đổi mới và phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã nêu rõ: “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân”. Để thực hiện yêu cầu đó, câu hỏi: “Ai nuôi Nhà nước và cả hệ thống chính trị ở Việt Nam?” cần được mọi người trong bộ máy công quyền cũng như mọi người dân trả lời rõ và ghi nhớ trong lòng.

Thursday, 15 September 2016

661.Chính phủ sẽ không can thiệp vào vấn đề tái cơ cấu nợ của Bầu Đức

(Dân Việt) TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, nhấn mạnh Chính phủ có thể sẽ không đồng ý về việc cơ cấu lại nợ cho Hoàng Anh Gia Lai (HAGL). Đấy là việc của doanh nghiệp, phải tự đi đàm phán với ngân hàng về việc cơ cấu lại nợ. Nếu không đàm phán được thì phải bán tài sản để trả nợ.


Chiều nay, ngày 15.9, HAGL tổ chức đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên năm 2016. Vấn đề mà cổ đông quan tâm hiện nay là giải pháp để HAGL có thể vượt qua giai đoạn khủng hoảng hiện nay và nguồn để trả khoản nợ 34.099 tỷ đồng (31.3.2016).
Trước thềm ĐHĐCĐ của HAGL, đã có thông tin về việc HAGL sẽ trở thành công ty con của BIDV (do BIDV hiện đang là chủ nợ lớn nhất của Bầu Đức, tính đến 31.3, Bầu Đức đang nợ BIDV là 10.664 tỷ đồng).
Tuy nhiên, đại diện của BIDV khẳng định không có chuyện đó vì BIDV không có chức năng mua dự án, chỉ kinh doanh tiền tệ. Do vậy, BIDV sẽ không mua lại HAGL của Bầu Đức.
 chinh phu se khong can thiep vao van de tai co cau no cua bau duc hinh anh 1Đề án tái cơ cấu nơ của Bầu Đức sẽ không nhận được ý kiến của Chính phủ
Sáng nay, tại ĐHĐCĐ thường niên 2016 của CTCP Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Agrico), Bầu Đức cũng đã đưa ra phương án tìm nguồn trả nợ. Theo đó, HAGL Agrico sẽ bán mảng mía đường và bán 20.000 ha cao su ở Lào cho đối tác Trung Quốc với giá tối thiểu 8.000 tỷ đồng. Đối với mảng mía đường, hiện đang đàm phán với Công ty Thành Thành Công của ông Đặng Văn Thành. Hy vọng, thương vụ này sẽ thành công, ông Thành sẽ mua lại mảng mía đường của Bầu Đức.
Hiện tại, HAGL Agrico vay ngân hàng 8.168 tỷ đồng, nợ công ty mẹ 10,327 tỷ đồng. Tài sản ngắn hạn vượt vay ngắn hạn, bức tranh tài chính nhìn chung không thực sự tốt. Do vậy, nếu việc bán tài sản của Bầu Đức thành công sẽ góp phần giảm nợ cho cả HAGL Agrico và HAGL.
"HAGL Agrico đang cân nhắc để 2017 chúng tôi sẽ giải quyết nợ một cách cơ bản và cũng đang chờ tái cấu trúc của Chính phủ và ngân hàng. Hai trường hợp có thể xảy ra, nếu Nhà nước hỗ trợ HAGL tái cấu trúc thì cơ bản không bán gì. Còn nếu có trục trặc sẽ bán 20.000 ha cao su, chúng tôi đã gặp nhiều đối tác Trung Quốc xem xét, nghiên cứu", ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT HAGL Agrico và HAGL thông tin.
Về ý kiến của Chính phủ đối với việc tái cơ cấu nợ của HAGL, ông Kiên nhấn mạnh Chính phủ sẽ không có ý kiến về vấn đề này. “Chính phủ chỉ tạo ra khuôn khổ pháp lý để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động, chứ không trực tiếp can thiệp vào từng thương vụ kinh doanh một. Vì vậy, trường hợp của HAGL là phải tự thoả thuận với chủ nợ. Nếu không thoả thuận được thì phải bán tài sản công khai trên thị trường hoặc tuyên bố phá sản”, ông Kiên nhấn mạnh.

661.Chính phủ sẽ không can thiệp vào vấn đề tái cơ cấu nợ của Bầu Đức

(Dân Việt) TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, nhấn mạnh Chính phủ có thể sẽ không đồng ý về việc cơ cấu lại nợ cho Hoàng Anh Gia Lai (HAGL). Đấy là việc của doanh nghiệp, phải tự đi đàm phán với ngân hàng về việc cơ cấu lại nợ. Nếu không đàm phán được thì phải bán tài sản để trả nợ.


Chiều nay, ngày 15.9, HAGL tổ chức đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên năm 2016. Vấn đề mà cổ đông quan tâm hiện nay là giải pháp để HAGL có thể vượt qua giai đoạn khủng hoảng hiện nay và nguồn để trả khoản nợ 34.099 tỷ đồng (31.3.2016).
Trước thềm ĐHĐCĐ của HAGL, đã có thông tin về việc HAGL sẽ trở thành công ty con của BIDV (do BIDV hiện đang là chủ nợ lớn nhất của Bầu Đức, tính đến 31.3, Bầu Đức đang nợ BIDV là 10.664 tỷ đồng).
Tuy nhiên, đại diện của BIDV khẳng định không có chuyện đó vì BIDV không có chức năng mua dự án, chỉ kinh doanh tiền tệ. Do vậy, BIDV sẽ không mua lại HAGL của Bầu Đức.
 chinh phu se khong can thiep vao van de tai co cau no cua bau duc hinh anh 1Đề án tái cơ cấu nơ của Bầu Đức sẽ không nhận được ý kiến của Chính phủ
Sáng nay, tại ĐHĐCĐ thường niên 2016 của CTCP Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Agrico), Bầu Đức cũng đã đưa ra phương án tìm nguồn trả nợ. Theo đó, HAGL Agrico sẽ bán mảng mía đường và bán 20.000 ha cao su ở Lào cho đối tác Trung Quốc với giá tối thiểu 8.000 tỷ đồng. Đối với mảng mía đường, hiện đang đàm phán với Công ty Thành Thành Công của ông Đặng Văn Thành. Hy vọng, thương vụ này sẽ thành công, ông Thành sẽ mua lại mảng mía đường của Bầu Đức.
Hiện tại, HAGL Agrico vay ngân hàng 8.168 tỷ đồng, nợ công ty mẹ 10,327 tỷ đồng. Tài sản ngắn hạn vượt vay ngắn hạn, bức tranh tài chính nhìn chung không thực sự tốt. Do vậy, nếu việc bán tài sản của Bầu Đức thành công sẽ góp phần giảm nợ cho cả HAGL Agrico và HAGL.
"HAGL Agrico đang cân nhắc để 2017 chúng tôi sẽ giải quyết nợ một cách cơ bản và cũng đang chờ tái cấu trúc của Chính phủ và ngân hàng. Hai trường hợp có thể xảy ra, nếu Nhà nước hỗ trợ HAGL tái cấu trúc thì cơ bản không bán gì. Còn nếu có trục trặc sẽ bán 20.000 ha cao su, chúng tôi đã gặp nhiều đối tác Trung Quốc xem xét, nghiên cứu", ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT HAGL Agrico và HAGL thông tin.
Về ý kiến của Chính phủ đối với việc tái cơ cấu nợ của HAGL, ông Kiên nhấn mạnh Chính phủ sẽ không có ý kiến về vấn đề này. “Chính phủ chỉ tạo ra khuôn khổ pháp lý để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động, chứ không trực tiếp can thiệp vào từng thương vụ kinh doanh một. Vì vậy, trường hợp của HAGL là phải tự thoả thuận với chủ nợ. Nếu không thoả thuận được thì phải bán tài sản công khai trên thị trường hoặc tuyên bố phá sản”, ông Kiên nhấn mạnh.

Thursday, 7 July 2016

656.Formosa Hà Tĩnh: phát thải “siêu độc”, quản lý “chưa tiên liệu”?

Nguồn: Kinh Tế Sài Gòn.

 Formosa Hà Tĩnh: phát thải “siêu độc”, quản lý “chưa tiên liệu”?

Đăng Nguyễn
Thứ Năm,  7/7/2016, 07:41 (GMT+7)

 (TBKTSG) - Trả lời báo chí tại cuộc họp báo ngày 30-6-2016, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) Trần Hồng Hà nói rằng: “Về quy chuẩn môi trường, trước đây vì nhiều lý do nên một số ngành ô nhiễm được ưu tiên. Ví dụ trong ngành luyện kim, luyện thép... nếu để tiêu chuẩn cao sẽ khó khả thi nên phải hạ thấp hơn chuẩn bình thường để ngành đó tồn tại, phát triển” (VnExpress). Vậy “trước đây”, hay nói đúng hơn là cho đến thời điểm này, các vấn đề môi trường của ngành thép được quản lý như thế nào để bây giờ Formosa Hà Tĩnh gây ra thảm họa môi trường ven biển miền Trung, đến nỗi Bộ trưởng Bộ TN-MT Trần Hồng Hà phải thừa nhận: “Có thể nói ta chưa tiên liệu được các chất thải của Formosa” (Tuổi Trẻ)?


Phát thải “siêu độc” của Formosa
Thật ra, từ năm 2009, Cục Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường (Tổng cục Môi trường, Bộ TN-MT) đã cho xuất bản tài liệu “Hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án luyện gang thép” (Hướng dẫn ĐTM). Hướng dẫn ĐTM này gồm lời nói đầu và 8 chương, đưa ra các phân tích chi tiết về công nghệ luyện gang thép, các tác động môi trường, các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường, chương trình quản lý và giám sát môi trường, tham vấn ý kiến cộng đồng và cuối cùng là khung hướng dẫn kỹ thuật lập báo cáo ĐTM dự án đầu tư xây dựng nhà máy luyện gang thép.
Hướng dẫn ĐTM này đã nêu rất rõ “...trong quá trình xây dựng và vận hành các dự án đầu tư xây dựng nhà máy luyện gang thép sẽ gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường. Vì vậy cần phải tiến hành đánh giá tác động môi trường cho dự án, nhằm mục đích phân tích, đánh giá và dự báo những tác động có lợi và có hại, trực tiếp và gián tiếp, trước mặt và lâu dài mà các hoạt động của dự án có thể ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường khu vực, để từ đó xây dựng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời giúp cho cơ quan chủ đầu tư dự án có những quyết định toàn diện và đúng đắn về các giải pháp phát triển dự án gắn với bảo vệ môi trường”. Với những gì được viết ra một cách chi tiết trong hướng dẫn này, thật khó hiểu với sự thừa nhận của Bộ trưởng Bộ TN-MT Trần Hồng Hà ở trên.
Cân bằng nguyên vật liệu và năng lượng để sản xuất ra 1 tấn thép thô từ nhà máy liên hợp gang thép như của Formosa mà Bộ TN-MT hướng dẫn (xem hình).
Theo hướng dẫn ĐTM này để tính toán với công suất giai đoạn 1 là 15 triệu tấn thép/năm, Formosa Hà Tĩnh sẽ thải ra môi trường với tải lượng các chất ô nhiễm (xem bảng).
Đó quả là những con số khủng khiếp cho dù xét theo bất cứ nguồn ô nhiễm nào: khí thải (gần 36 triệu tấn/năm), nước thải (trên 28.000 tấn/năm các chất ô nhiễm) hay chất thải rắn (gần 9 triệu tấn/năm). Tất nhiên đây là tải lượng ô nhiễm trước khi được xử lý bằng các hệ thống kiểm soát ô nhiễm không khí, xử lý nước thải và quản lý chất thải rắn.
Một điều đáng lưu ý, đó là tổng lượng phenol và xyanua trong nước thải của Formosa trước khi xử lý là 120 tấn/năm hay 0,36 tấn/ngày (cho rằng nhà máy vận hành 330 ngày/năm), tính theo tài liệu hướng dẫn ĐTM của Bộ TN-MT ở trên.
Như vậy, tính ra trong năm ngày nhà máy mất điện và không thể xử lý được nước thải, tổng lượng phenol và xyanua đã thải ra biển Vũng Áng mà Bộ TN-MT công bố đó là nguyên nhân chính gây ra thảm họa cá chết hàng loạt từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên  - Huế trong tháng 4-2016 vừa qua, là 1,82 tấn (giả định chạy theo công suất của giai đoạn 1). “Chỉ” 1,82 tấn phenol và xyanua trong năm ngày, mà phá hủy gần như toàn bộ rạn san hô trên 200 cây số bờ biển miển Trung mà có khi cần đến cả trăm năm để phục hồi. “Chỉ” 1,82 tấn phenol và xyanua trong năm ngày, mà hàng triệu ngư dân miền Trung điêu đứng vì mất ngư trường trong vài tháng qua và sẽ còn khó khăn không biết đến bao giờ.
Nếu tính theo giấy phép xả thải mà Formosa đã được cấp với lưu lượng 45.000 mét khối/ngày, chỉ riêng với nồng độ phenol hay xyanua cho phép đều là 0,585 mg/l, thì tổng lượng phenol và xyanua sẽ thải ra biển Vũng Áng trong điều kiện Formosa vận hành ổn định và xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép sẽ là 17,37 tấn/năm, tức là lớn gấp 9,5 lần so với lượng thải của năm ngày gây ra thảm họa.
Vậy liệu rằng hệ sinh thái biển miền Trung kia, vốn đã bị phá hủy gần như toàn bộ “chỉ” với 1,82 tấn phenol và xyanua, có tiếp tục chịu đựng nổi trong 70 năm tới khi còn tiếp nhận hàng năm một số lượng phenol và xyanua “ổn định” là 17,37 tấn/năm, đó là chưa kể Formosa còn dự kiến nâng công suất nhà máy lên 1,5 lần, đạt 22 triệu tấn thép/năm cũng sẽ dẫn đến lượng phát thải gấp 1,5 lần như thế?
Xem ra Bộ TN-MT cần phải nỗ lực nhiều để có bộ quy chuẩn nước thải cũng như giấy phép xả thải phù hợp cho Formosa Hà Tĩnh, thay cho bộ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất gang thép QCVN 52:2013/BTNMT đang được áp dụng và “chưa tiên liệu được các chất thải của Formosa” với chỉ 12 thông số.
Để tham khảo, Hướng dẫn về môi trường, sức khỏe và an toàn của Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) áp dụng cho nước thải của các nhà máy sản xuất thép liên hợp như Formosa quy định đến 25 thông số, trong đó có rất nhiều thông số về kim loại nặng mà QCVN 52:2013/BTNMT không quy định.
Sau nước thải là khí thải
Dư luận chưa chú ý đến nhiều về khí thải từ Formosa Hà Tĩnh, cho dù đó cũng là một nguồn ô nhiễm cực lớn, có lẽ do khu liên hợp gang thép này chưa vận hành toàn bộ dây chuyền sản xuất. Theo tính toán ở trên, chỉ riêng phát thải CO2 của Formosa Hà Tĩnh đã đạt đến 34,5 triệu tấn/năm, so với tổng lượng phát thải khí nhà kính năm 2020 của tất cả các ngành sản xuất và xây dựng là 68,3 triệu tấn/năm (không kể ngành công nghiệp sản xuất năng lượng), theo báo cáo dự báo phát thải khí nhà kính của Bộ TN-MT năm 2014.
Nghĩa là, chỉ riêng khu liên hợp gang thép Formosa Hà Tĩnh, phát thải khí nhà kính đã chiếm đến trên 50,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong toàn bộ các ngành sản xuất và xây dựng tại Việt Nam! Ta biết rằng Việt Nam là một trong những nước dễ bị tổn thương nhất thế giới do biến đổi khí hậu, và những thảm họa do thiên tai như hạn hán, lũ lụt và những hiện tượng thời tiết cực đoan khác xảy ra khắp cả nước trong thời gian qua với cường độ tác hại ngày càng lớn cũng như tần suất xảy ra ngày càng dày đặc đã chứng minh điều đó. Vậy thì không rõ khi vận hành toàn bộ dây chuyền sản xuất, Formosa Hà Tĩnh sẽ tiếp tục góp phần làm nghiêm trọng thêm tác động do biến đổi khí hậu đến mức nào?
Cùng với CO2 còn là những chất ô nhiễm khác độc hại không kém, đó là bụi và khí kim loại gần 1 triệu tấn/năm có nguy cơ rất cao gây ra các bệnh về đường hô hấp, trong đó có ung thư phổi. Ngoài ra, SO2 và NOx là những khí gây ra mưa axit, làm suy giảm chất lượng đất, chất lượng nước, giảm năng suất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, cũng đạt đến lượng phát thải theo thứ tự là 33.000 tấn/năm và 34.500 tấn/năm.
Tương tự nước thải, khí thải cũng có quy định riêng, đó là Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép QCVN 51:2013/BTNMT. Quy chuẩn này quy định 11 thông số cho khí thải sản xuất thép nói chung, và 11 thông số cho khí thải sản xuất cốc (luyện cốc).
Trong khi đó, hướng dẫn về môi trường, sức khỏe và an toàn của IFC áp dụng cho khí thải của các nhà máy sản xuất thép liên hợp như Formosa quy định chung đến 18 thông số, không phân biệt quy trình sản xuất.
Có hai điều đáng nói về QCVN 51:2013/BTNMT, đó là quy định chỉ tiêu dioxin/furan chỉ được áp dụng từ ngày 1-1-2017, và nồng độ bụi cho phép cao gấp 2-5 lần so với hướng dẫn của IFC (100 mg/Nm3 so với 20-50 mg/Nm3, trong đó IFC đề nghị áp dụng 20 mg/Nm3 khi trong bụi phát hiện có các kim loại độc hại). Dioxin, thành phần chính của chất độc màu da cam mà không lạ gì với người dân Việt Nam, là tác nhân gây chết người, ung thư và để lại nhiều di chứng về sức khỏe cho nhiều thế hệ; Dioxin/Furan là những hợp chất có độc tính cao nhất được biết trong khoa học cho đến nay.
Trong khi đó, bụi phát sinh từ các ống khói nhà máy liên hợp sản xuất thép có tính chất là bụi lơ lửng (SPM), trong đó hàm chứa rất nhiều các kim loại nặng độc hại khác nhau như asen, thủy ngân, cadmi, chì, niken, crôm, kẽm, mangan... Vậy thì, dioxin/furan độc hại như thế, sao chỉ yêu cầu áp dụng từ ngày 1-1-2017? Bụi lơ lửng phức tạp với nhiều kim loại nặng độc hại như thế, dựa vào đâu để cho phép thải với nồng độ quá cao so với tiêu chuẩn quốc tế?
Ngoài ra, hiện nay giấy phép xả thải chỉ mới được áp dụng cho nước thải và chất thải công nghiệp, chất thải nguy hại, còn giấy phép xả thải cho khí thải chỉ được áp dụng sau ngày 1-1-2018, theo quy định trong Nghị định số 38/2015/NĐ-CP. Với nguy cơ ô nhiễm do khí thải của Formosa Hà Tĩnh như hiện nay, rõ ràng không có lý do gì phải trì hoãn việc áp dụng giấy phép xả thải cho khí thải đến sau ngày 1-1-2018. Việc áp dụng giấy phép xả thải cho khí thải càng sớm càng tốt sẽ góp phần ngăn ngừa thảm họa môi trường do ô nhiễm không khí từ Formosa Hà Tĩnh có thể gây ra cho đồng bào miền Trung.
Kiểm soát ô nhiễm ở Formosa, cần đầu tư 1 tỉ đô la Mỹ!
Theo báo cáo nghiên cứu “Modelling and Analysis of Environmental Pollution in an integrated steel plant” (Mô hình hóa và phân tích ô nhiễm môi trường của một nhà máy liên hợp gang thép) do Giáo sư K. Vizayakumar đến từ Indian Institute of Technology (Viện Công nghệ Ấn Độ) thực hiện năm 2001, thống kê cho thấy để các hệ thống kiểm soát ô nhiễm trong các dự án liên hợp gang thép hoạt động thực sự hiệu quả, chi phí đầu tư cho các hệ thống này chiếm đến 10% tổng vốn đầu tư dự án. Nghĩa là với quy mô đầu tư 10 tỉ đô la Mỹ của dự án Formosa Hà Tĩnh, chi phí để đầu tư cho các hệ thống xử lý khí thải, xử lý nước thải và quản lý chất thải rắn tại đây cần đến 1 tỉ đô la Mỹ.
Trong khi đó, hệ thống xử lý nước thải 45.000 mét khối/ngày mà Formosa tự cho là hiện đại chỉ tốn có 45 triệu đô la Mỹ, chưa bằng 1/22 con số 1 tỉ đô la Mỹ nhu cầu đầu tư ở trên. Vậy liệu rằng Formosa có dành đến 955 triệu đô la Mỹ còn lại để đầu tư vào hệ thống xử lý khí thải và quản lý chất thải rắn, để đảm bảo tuân thủ về môi trường theo các chuẩn mực quốc tế? Hay “nếu để tiêu chuẩn cao sẽ khó khả thi nên phải hạ thấp hơn chuẩn bình thường để ngành đó tồn tại, phát triển”, nên Formosa đã và sẽ còn tiếp tục lợi dụng để rồi môi trường của Việt Nam sẽ bị ô nhiễm, người dân của Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị trả giá?
Chỉ có Bộ TN-MT với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp và cao nhất trong Chính phủ về các lĩnh vực môi trường, tài nguyên nước, biến đổi khí hậu... mới có thể trả lời những câu hỏi đó.

Xem thêm:
Formosa cam kết bồi thường 11.500 tỉ đồng vì gây ra vụ cá chết
Thủ tướng yêu cầu giải trình vụ cấp phép xả thải Formosa

Sunday, 17 April 2016

653. Mười năm qua gió thổi đồi tây...




Năm 2016 là năm đặc biệt với tôi vì nó đánh dấu 10 năm tôi trở về Việt Nam sau hơn mười mấy năm sống ở nước ngoài và cũng là năm tôi qua tuổi 40, tuổi không còn trẻ nữa. Bài viết này là quan sát rất cá nhân của tôi, (và không có tính khoa học) về Việt Nam trong 10 năm qua dưới con mắt của một người trở về, từ dân nghiên cứu chuyển sang làm kinh doanh, nhân dịp sau đại hội Đảng và kết thúc một nhiệm kỳ của chính phủ.
Với tôi, Việt Nam của thập kỷ 2006-2015 được khái quát bằng những điểm chính sau: 1) Sự lũng đoạn trầm trọng của các công ty tư nhân trong việc cấu kết với các quan chức nhà nước, cái mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi là “lợi ích nhóm”, còn kinh tế học thì gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (cronysm); 2) Về phía khu vực công, sự “đục khoét ngân sách” hay “đào mỏ ngân sách” được đẩy lên đến đỉnh điểm; 3) Thập kỷ này đánh dấu sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục của nước nhà. 4) Mạng xã hội và truyền thông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính trị Việt Nam; 5) Và cuối cùng, làn sóng người có tiền và kiến thức ra đi ào ạt, lại một cuộc di cư nữa.
Vấn đề đầu tiên là sự lũng đoạn trầm trọng của các tập đoàn tư nhân. Chưa bao giờ mà chủ nghĩa tư bản thân hữu “cronyism” ở Việt Nam lại biểu hiện rõ như thế. Chủ nghĩa tư bản thân hữu hay “nhóm lợi ích” ở đây là sự kết hợp giữa công ty tư nhân và quan chức nhà nước trong việc giành những đặc quyền đặc lợi để khai thác một nguồn lực gì đó trên cơ chế bất bình đẳng, không cạnh tranh lành mạnh. Câu nói mà bạn sẽ nghe nhiều nhất trong 10 năm vừa qua sẽ là “chỗ này là của anh A, chỗ kia là của chị B”. Dường như không có cuộc chơi kinh doanh lớn nào ở Việt Nam mà lại không có sự “bảo kê” của một quan chức nào đó. Mọi quan hệ kinh tế sẽ được thay bởi các quan hệ chằng chịt giữa chính trị và doanh nghiệp.
Điểm nguy hiểm nhất của chủ nghĩa tư bản thân hữu là việc nó tạo ra một cuộc chơi bất bình đẳng mà các công ty tư nhân khác không được cơ hội tham gia. Qua đó các công ty “nhóm lợi ích” được độc quyền khai thác nguồn tài nguyên hay một hoạt động nào đó, và thường là gây thiệt hại cho người dùng. Trong tài chính, đây là cuộc chơi sử dụng quyền lực để mua lại các doanh nghiệp theo ý của mình. Trong giáo dục, đó là việc trao cho một công ty giáo dục độc quyền cung cấp một dịch vụ, thiết bị mà học sinh, phụ huynh phải mua mà không có sự lựa chọn khác. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng, thì sử dụng quan hệ chính trị để lấy các hợp đồng thầu lớn mà không thông qua đấu thầu công bằng và minh bạch. Trong bất động sản, đó là việc thay đổi quy hoạch tạo lợi thế cho doanh nghiệp hoặc việc lấy các vị trí đắc địa qua những mối quan hệ bất bình đẳng.
Thay vì phát triển theo một hướng minh bạch có lợi về dài hạn, Việt Nam dường như đang trượt ngã trên con đường phát triển của những nước mà chủ nghĩa tư bản thân hữu đang lũng đoạn mà chưa có lối ra như Philippine, các nước Mỹ Latin, Liên bang Nga, Trung Quốc. Và rồi sẽ có lúc nếu không kiểm soát sớm thì doanh nghiệp sẽ là người điều khiển cuộc chơi chính trị kinh tế, là kẻ tống người tiêu dùng vào tù, là kẻ bịt mồm nhà báo, v.v , và cuối cùng là thế lực thực sự lũng đoạn nền chính trị, đưa người này lên, đưa kẻ khác xuống. Khi chính trị bị định đoạt bằng đồng tiền và quan hệ thì chính trị đã trở thành “công cụ” của những tay chơi tư bản lớn. Và khi đó, nền kinh tế tại Việt Nam sẽ trở thành hiện thân “chủ nghĩa tư bản” thời kỳ “mông muội” và đáng “ghê tởm”nhất chứ không phải là chủ nghĩa xã hội như ước vọng của các lãnh đạo Đảng CS.
Vấn đề thứ hai, với tôi, là việc “đào mỏ ngân sách” (budget mining) (mượn lời của TS Vinh du Tran). Thập kỷ vừa qua tại Việt Nam được đánh dấu bằng việc “vung tay quá trán” của chính quyền địa phương. Chưa có thời kỳ nào mà Việt Nam lại lắm công trình chùa chiền, công trình kỷ niệm, các dự án khu hành chính ngốn hàng trăm, hàng ngàn tỷ như những năm vừa qua. Các địa phương thi nhau đục khoét ngân sách thông qua các dự án công. Không có cách nào rút tiền ngân sách dễ dàng như rút tiền qua dự án công. Một công trình, khu tượng đài có giá trị đầu tư hàng trăm tỷ sẽ được giao cho một công ty xây dựng “thân hữu”. Công ty xây dựng đó sẽ trở thành nhà thầu chính và qua đó có thể chia sẻ lại quyền lợi cho những người có quyết định.
Điểm đáng kinh ngạc và phẫn nộ là trong khi ai cũng biết mười mươi sự lãng phí và sự rút tiền trắng trợn qua những dự án này thì chính quyền trung ương dường như lại không thể áp đặt và quyết đoán ngăn chặn những quyết định này. Tại sao các địa phương lại có thể xin ngân sách nhà nước một cách tùy tiện như vậy. Sự nghịch lý này hoàn toàn có thể giải thích được. Chính quyền trung ương sẽ được đánh giá tín nhiệm từ hai nguồn: a) các ủy viên trung ương, mà đại diện là lãnh đạo các tỉnh/chính quyền địa phương; b) đánh giá tín nhiệm từ quốc hội. Tuy nhiên, ủy viên trung ương mới là người thực sự bầu ra bộ chính trị, thủ tướng, và thực tế nội các. Trong khi đó, lá phiếu tín nhiệm của quốc hội chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà không có hình phạt. Do đó, dường như phải có sự thỏa hiệp giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương trong việc đổi lấy lá phiểu ủng hộ, đặc biệt là giữa nhiệm kỳ. Do vậy, để tránh việc đầu tư vung vãi như trên thì cần phải thiết kế một cơ chế quy trách nhiệm cho người lãnh đạo chính quyền địa phương và bảo đảm được tính độc lập trong việc ra quyết định chi ngân sách của người đứng đầu chính quyền trung ương.
Từ những năm qua, mạng xã hội và truyền thông đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị ở VN. Xã hội Việt Nam 10 năm qua đã không còn là xã hội thụ động về truyền thông nữa. Sự phát triển của mạng xã hội đã cho phép người dân tham gia vào đời sống chính trị kinh tế xã hội một cách chủ động hơn rất nhiều. Mạng xã hội đã chính thức trở thành nơi để xả những uất ức phẫn nộ và bức bối của dân chúng. Nếu như ở nước ngoài, người dân phản ứng với thay đổi bằng cách biểu tình thì ở Việt Nam, người ta sẽ phản ứng bằng cách “biểu tình trên mạng”. Mỗi một sự kiện có ảnh hưởng lớn đến đời sống đều được đem ra bàn luận sôi nổi trên mạng xã hội. Ảnh hưởng của mạng xã hội lớn đến mức có rất nhiều vụ việc sau đó bị thay đổi do dư luận trên mạng xã hội đã dẫn dắt truyền thông chính thống, ví dụ như vụ chặt cây xanh, máy tính bảng, tiếng Anh tích hợp, thực phẩm bẩn .v.v.
Quay lại chuyện chính trị và truyền thông, dường như truyền thông và mạng xã hội đã loại thẳng tay các lãnh đạo đương nhiệm của Bộ GDĐT và Bộ Y tế, trong khi trái tim của công luận dường như “tình trong như đã” với nguyên Bộ trưởng Bộ Giao Thông Đinh La Thăng. Xét công bằng mà nói thì hai Bộ Y tế và Bộ GD ĐT có những nỗ lực không hề nhỏ trong 5 năm vừa qua. Tuy nhiên nhìn cách họ ứng xử với truyền thông thì thấy hai Bộ này còn phải thay đổi rất nhiều. Bộ Y tế ứng xử với truyền thông thì hết sức vụng về, luôn đi chậm một bước, tuyên bố rất ngô nghê. Còn Bộ Giáo Dục thì luôn có vẻ ngạo mạn, hành xử đầy “cha chú” với truyền thông và công luận với những chính sách và phát ngôn gây sốc như dự án 35 nghìn tỷ, cuộc thi đại học như “đánh bạc”, và chả bao giờ có lời giải thích cầu thị đến nơi đến chốn cả. Trong khi đó, chỉ một hình ảnh ông Đinh La Thăng đu dây xuống thị sát vụ tai nạn cũng đã đủ đốn ngã hàng triệu con tim của người dân, và kế đó là việc ông là người duy nhất được bầu thẳng vào Bộ Chính Trị mà không có sự giới thiệu từ Bộ Chính Trị trước đó.
Đối với tôi, người từng tham gia rất sâu vào giáo dục và cũng là người có hai đứa con đang độ tuổi đi học cấp 1 và cấp 2 ở Việt Nam, giáo dục là điều tôi quan tâm nhất. Với tôi, 10 năm qua chứng kiến sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục Việt Nam. Sang thế kỷ 21 rồi mà giáo trình phổ thông và đại học của Việt Nam vẫn vô cùng lạc hậu hàng chục năm so với nước ngoài. Hàng trăm vụ scandal liên quan đến nội dung giáo trình phổ thông đã xảy ra; những gì con tôi được học không khác gì những gì cha tôi và tôi đã từng được học cách đây hơn 30-50 năm. Người thầy vẫn phải dạy một cách giáo điều, khuôn mẫu, ngăn cản sáng tạo. Vẫn những câu chuyện lịch sử áp đặt hoặc không được nhắc đến. Những cuộc cải cách giáo trình mãi không biết đến bao giờ mới xong (trong khi đó nếu Bộ GD ĐT trao quyền cho khối tư nhân thì có khi chỉ 1 năm đã có tất cả giáo trình đầy đủ). Và vẫn những loay hoay không lối thoát về chiến lược giáo dục.
Sắp hội nhập AEC và TPP đến nơi rồi mà hơn 80% học sinh thi tốt nghiệp phổ thông trung học có điểm tiếng Anh dưới 5, điểm trung bình. Ấy thế mà những nhà quản lý giáo dục vẫn “bình chân như vại”. Giáo dục song ngữ, cụ thể là tiếng Anh, vẫn chưa bao giờ được coi là quan trọng nhất. Việc dạy Toán và Khoa học, nền tảng giáo dục cơ bản cho một đất nước “sáng tạo” lại luôn được dạy một cách vô cùng lý thuyết và thiếu tính ứng dụng cao.
Cuộc khủng hoảng năm 2008 kéo dài với những bấp bênh bất ổn của nền kinh tế đã dẫn đến một làn sóng ngầm nhưng rất rõ ràng là những ai có điều kiện đều cảm thấy cần phải mua “bảo hiểm” cho gia đình mình bằng tấm hộ chiếu của một đất nước khác. Nếu như năm 2006 khi tôi trở về, câu chuyện trong giới doanh nghiệp và tài chính là đầu tư vào đâu, thì những năm gần đây, câu chuyện thường trực mà tôi nghe là họ sẽ di cư đi đâu, chuyển tiền ra nước ngoài thế nào. Tại sau người ta lại bỏ nước ra đi? Người ta bỏ nước ra đi vì họ thấy quá nhiều bất ổn: kinh tế bấp bênh, ô nhiêm môi trường trầm trọng, thực phẩm độc hại tràn lan, Và đặc biệt, là một nền giáo dục quá lạc hậu không thể chuẩn bị cho con cái họ một tương lai trước một thế giới đầy bất định.
Cứ 10 chủ doanh nghiệp mà tôi gặp thì ít nhất 3-4 người đã có thẻ thường trú nhân ở một nước tư bản, số còn lại thì hơn một nửa cũng đang ngấp nghé chuẩn bị. Sự khác biệt lớn nhất của cuộc di cư lần này so với những cuộc di cư khác là cuộc di cư lần này không hề vì ý thức hệ. Cuộc di cư lần này được những người tinh hoa nhất, thành đạt nhất dẫn đầu, và được chuẩn bị vô cùng bài bản và công khai. Họ ra đi mang theo số lượng tiền bạc, trí tuệ khổng lồ. Một cuộc chảy máu chất xám và tiền lớn hơn tất cả những cuộc di cư trước cộng lại. (Còn với tôi, nếu tôi có phải bỏ nước ra đi, thì lý do duy nhất là tôi không muốn con tôi sống với những điều dối trá đang diễn ra.)
Sang năm 2016, tôi thấy hơi lạc quan với những động thái mà Đảng CS đưa ra. Dường như những nhà lãnh đạo đã cảm thấy một phần sức nóng bức xúc của công luận. Tham nhũng được coi là quốc nạn, những vụ bổ nhiệm lãnh đạo cao cấp dường như khá tích cực. Những vụ luân chuyển cán bộ cấp thành ủy đã mang hơi hướng của việc cải cách. Một điểm tích cực khác là dàn lãnh đạo khá trẻ của Đảng cho dù họ có là con ông cháu cha hay chăng nữa. Truyền thông và mạng xã hội được coi trọng hơn rất nhiều. Quan chức giờ đã biết nhìn và hành động theo phản ứng của dư luận, cho dù những việc đó có là “giả tạo” thì việc biết để ý đến phản ứng của công luận đã là một bước tiến bộ rất đáng kể.
Tôi mong rằng sang thập kỷ mới, chính phủ Việt Nam sẽ giải quyết được triệt để những vấn đề nêu trên. Hãy trở thành một chính phủ quyết đoán hơn, dùng được tầng lớp kỹ trị. Các quan chức phải chịu trách nhiệm cá nhân cho các quyết sách của mình. Hãy biến Việt Nam trong những năm tới thành một “Quốc Gia Giáo Dục – Education Nation” nơi mà việc học tiếng Anh, Toán, Khoa học được coi trọng hàng đầu.
Chính phủ Việt Nam cũng nên cởi mở hơn với những phản biện xã hội. Hãy coi phản biện xã hội là những tấm gương lớn để soi lại mình. Đừng chụp mũ và áp đặt cho các phản biện xã hội là “diễn biến hòa bình” hay “các thế lực phản động”. Đảng CS Việt Nam luôn tự làm mới mình trong mỗi lần sinh tử. Vậy hãy làm mới mình, hãy chấp nhận thay đổi cho một đất nước tốt đẹp hơn.
Anh bạn thân của tôi, một nhà kinh tế học nổi tiếng Việt Nam đã từng nói đầy cay đắng: Bi kịch và nghịch lý lớn nhất của thể chế chính trị hiện giờ là nó biến những người hiền hòa, những trí thức và doanh nhân an phận có trách nhiệm (như tính cách của dân tộc Việt Nam) thành những người bất đồng. Chúng tôi yêu tha thiết đất nước này, và một cách nào đó, chúng tôi được hưởng lợi từ chế độ này. Tuy nhiên, mong thể chế này hãy thay đổi tích cực để đừng biến những người yêu nước (như chúng tôi), một ngày nào đó lại phải trở thành những người “bất đồng chính kiến”.
Nguyễn Quốc Toàn
(Đầu đề mượn lời thơ của Phạm Công Thiện. Bài viết có sử dụng các ý trao đổi của Vũ Thành Tự Anh và Trần Vinh Dự).

Monday, 1 June 2015

737. TOO BIG TO BE BANKRUPTED - http://m.nguoiduatin.vn/khi-nao-hoang-anh-gia-lai-vo-no-a19…


Mình biết một anh nợ vài trăm tỉ. Chủ nợ cho XHĐ đòi, anh ấy dẫn cả đám vô phòng riêng, mở két và rút ra một quả lựu đạn. Hỏi lại có đứa nào muốn chết cùng với tao thì ở lại đây. Cả đám giang hồ hổ báo xăm trổ đầy mình chạy té khói hết.
Anh này từng là một big boss, nhưng sa lầy trong các dự án BĐS nên giờ trắng tay.
May là anh khôn, rút ruột công ty được vài triệu cho vợ con đi Mỹ rồi ly dị.
Giờ bên ngoài anh vẫn rất hoành tráng, ngày ngày đi đánh golf với mấy em chân dài. Anh ho một tiếng là cả đám chủ nợ lo mà mang thuốc đến.
He he!
Vài trăm tỉ đã thế. Mấy anh nợ vài ngàn tỉ hay chục ngàn tỉ thì ai mà dám cho phá sản nhỉ wink emoticon
http://m.nguoiduatin.vn/khi-nao-hoang-anh-gia-lai-vo-no-a19…
=========================================



 Nếu tất cả trái chủ đều đồng ý gia hạn nợ, tương lai của HAGL sẽ tiếp tục được đảm bảo; ngược lại, tập đoàn này rất có thể sẽ bị phá sản. 

 

Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý I/2015 của Hoàng Anh Gia Lai Group (HAGL), gói nợ trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu hoán đổi trị giá 4.230 tỷ đồng của tập đoàn này dự kiến sẽ chuyển đổi và đáo hạn trong tháng 7, tháng 8 và tháng 12 tới đây.
Tuy nhiên, do thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến chưa thuận lợi nên HAGL đang tiến hành các thủ tục điều chỉnh kéo dài thời gian chuyển đổi và đáo hạn với các trái chủ.
Trong tổng số 4.230 tỷ đồng trên, khoản nợ đầu tiên của HAGL sẽ đáo hạn ngày 15/07/2015 trị giá 1.130 tỷ đồng. Đây là khoản trái phiểu hoán đổi phát hành cho công ty thành viên của Temasek (Singapore). Nhiều ý kiến nhận định, với giá cổ phiếu HAG đang lao dốc như hiện tại, khả năng Temasek đồng ý chuyển đổi khoản nợ này là không cao.
  Khi nào Hoàng Anh Gia Lai 'vỡ nợ'? - Ảnh 1

Bầu Đức sẽ 'vỡ nợ' vì không thể thanh toán các khoản vay?

Mới đây, trong bản báo cáo của mình về HAGL, Công ty Chứng khoán HVS Việt Nam cho rằng, HAGL không thể trả khoản nợ khoảng 5.100 tỷ đồng trong năm 2015 nếu các trái chủ từ chối gia hạn. Bởi lẽ, ước tính trong năm 2015, HAGL chỉ có thể tạo ra dòng tiền tối đa là 2.000 tỷ đồng. Điều đó cũng đồng nghĩa, tương lai của HAGL hiện nay phụ thuộc vào việc các trái chủ có đồng ý gia hạn nợ cho tập đoàn này hay không.
Trong trường hợp Temasek từ chối gia hạn và tiến hành lấy lại vốn gốc và lãi cho khoản vay 1.130 tỷ đồng của mình, HAGL sẽ đối mặt với vô vàn khó khăn. Bởi sau khi trả số tiền này, HAGL sẽ không còn khả năng thanh toán các khoản nợ còn lại sẽ đáo hạn vào tháng 8 và tháng 12 tới.
Trường hợp thứ 2, Temasek đồng ý gia hạn nợ, nhưng các trái chủ khác lại không, HAGL sẽ phải đối mặt với nguy cơ vỡ nợ. Bởi lẽ, dù Temasek có gia hạn toàn bộ trái phiếu của mình (trị giá 2.230 tỷ đồng) nhưng với khoản nợ 2.850 tỷ đồng từ các trái chủ còn lại, HAGL rất khó có thể trả.
Nếu điều này xảy ra, toàn bộ cổ phiếu của HAGL sẽ trở nên vô giá trị, khoản đầu tư của Temasek cũng sẽ mất trắng.
Theo HVS, không chỉ riêng Temasek, bất cứ trái chủ nào đồng ý ra hạn nợ cho HAGL đầu tiên sẽ là đối tượng chịu rủi ro mất tiền cao nhất. Biện pháp tốt nhất hiện nay là HAGL cần tổ chức một hội nghị để thuyết phục tất cả các trái chủ đều đồng ý gia hạn nợ cho mình.
Văn Nguyễn

Tuesday, 30 December 2014

720.Nước đã đến chân doanh nghiệp vẫn chưa sẵn sàng

Cuối năm nhìn lại.
 

Theo: VNN's: Thời điểm không ít doanh nghiệp đang vất vả vật lộn với câu hỏi “tồn tại hay không tồn tại” thì cũng là lúc những biến động vô cùng to lớn đang đứng bên ngưỡng cửa nền kinh tế của chúng ta.
Đó là Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ đến trong vòng không đầy 12 tháng và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương đang trong quá trình kết thúc các vòng thương thảo và có khả năng sẽ được ký vào năm 2015.
Mới đây chúng ta vừa kết thúc đàm phán các hiệp định thương mại tự do VCUFTA (với Hải quan Nga – Belorussia và Kazakhstan), EVFTA (với Liên minh châu Âu), VKFTA (với Hàn Quốc), trong đó chúng ta được dành nhiều ưu đãi, cơ hội rộng mở cho xuất nhập khẩu. Liệu các doanh nghiệp trong nước có kịp trở tay, hay lại buông xuôi để trôi theo dòng nước?
Tháng 11-2006, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chúng ta đã háo hức chờ đón một bước chuyển mình lớn nhất từ khi mở cửa hội nhập.
Trước đó, Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA) đã cho thấy là một thành công to lớn của Việt Nam, để giá trị thương mại tăng bình quân 20%, từ 1,5 tỉ USD trước đó đến 30 tỉ USD năm vừa qua.
Tuy nhiên, sự hứng khởi với WTO chỉ ngắn ngủi trong năm 2007, để rồi bắt đầu năm 2008 các doanh nghiệp dồn dập đón nhận bão táp đến từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.
Thế là hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã không trụ nổi trong bão táp đã lần lượt rời bỏ cuộc chơi. Trong rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan của khó khăn, các doanh nghiệp liệu có đặt câu hỏi khi giật mình nhìn lại: Có phải chúng ta đã lạc quan quá đà? Có phải so với doanh nghiệp các nước, chúng ta đã chuẩn bị một cách quá yếu kém cho cuộc chơi mới?
Bài viết này chỉ muốn khơi dậy mối quan tâm của doanh nghiệp với hai sự kiện hết sức quan trọng đang tới, đó là Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trong dịp khác, chúng ta sẽ bàn đến các sự kiện khác như Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP – gồm 10 nước ASEAN và sáu nước Úc, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, New Zealand) và Hiệp định Thương mại tự do với EU.
Tại sao lại là TPP và EAC?
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được nhắc đến nhiều vì đây là hiệp định thương mại lớn nhất thế giới, với chỉ 12 nước tham gia nhưng có quy mô 40% GDP toàn cầu. Thứ hai, đây được coi là hình mẫu của hiệp định thương mại thế kỷ XXI với mức độ toàn diện cao nhất, không chỉ về thương mại, đầu tư, mà tác động đến cả chính sách trong mỗi nước. Khác với việc gia nhập WTO là gia nhập một tổ chức thì tham gia TPP là ký kết một hiệp định với những điều khoản rất cụ thể. Tuy đã lỡ dịp ký năm 2014, tuy nhiên các bên đang kỳ vọng TPP sẽ được ký trong nửa đầu năm 2015.
Việt Nam, doanh nghiệp, ASEAN, TPP, AEC
Xếp hạng năng lực cạnh tranh các nước tham gia TPP. (Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới 2014)
Cộng đồng kinh tế ASEAN (EAC) lại là sự kiện gần gũi nhất với Việt Nam, với thời hạn đã được ấn định là tháng 12-2015, tức còn đúng một năm nữa. Mười nước ASEAN sẽ trở thành một cộng đồng kinh tế tự do với quy mô 2.300 tỉ USD, với dân số 600 triệu người. Giữa cộng đồng này sẽ là dòng chảy hoàn toàn tự do về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có kỹ năng (trước mắt là tám ngành gồm bác sĩ, nha sĩ, y tá, kỹ sư, kiến trúc sư, kế toán, giám định và du lịch).
Chúng ta có gì đặc biệt trong TPP và EAC?
Điểm đặc biệt của chúng ta, theo xếp hạng năm 2015 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong 12 nước tham gia TPP thì Việt Nam là nước có năng lực cạnh tranh thấp nhất!
Đáng nói hơn, trong TPP thì Việt Nam có hạng thấp nhất về bản chất của năng lực cạnh tranh. Theo cách phân loại của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, trong TPP thì bảy nước Nhật, Singapore, Mỹ, Malaysia, Úc, Canada và New Zealand nằm trong nhóm phát triển dựa vào sáng tạo. Hai nước Chile và Mexico nằm trong nhóm phát triển dựa vào năng suất. Riêng Việt Nam và Peru nằm trong nhóm dưới đáy, được gọi là phát triển kinh tế dựa vào các yếu tố được thiên nhiên ban phát. Hay nói cách khác, so trên thế giới thì chúng ta được coi là nền kinh tế đào xúc và hái lượm!
Còn trong EAC, đếm đầu quốc gia thì có vẻ như năng lực cạnh tranh của chúng ta không quá tệ: đứng dưới năm nước và đứng trên ba nước. Tuy nhiên, phải nhìn vào quy mô kinh tế thì mới thấy bức tranh thực. Nhóm có năng lực cạnh tranh cao hơn chúng ta chiếm 89% GDP của cả khối, trong khi chúng ta chỉ trên được một nhóm tương đương 3% GDP của cả khối.
Việt Nam, doanh nghiệp, ASEAN, TPP, AEC
Xếp hạng trình độ sản xuất các nước trong khu vực. (Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới 2014)
Càng đi sâu vào so sánh các chi tiết, càng có nhiều điểm làm cho chúng ta phải giật mình. Việt Nam xếp hạng tệ nhất trong ASEAN về chi phí thuế (gồm chi phí tiền bạc và chi phí thời gian cho thuế). Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, thời gian doanh nghiệp phải tốn cho thuế ở Việt Nam cao gấp 10 lần ở Singapore và năm lần ở Campuchia.
Về trình độ marketing và trình độ quy trình tổ chức, chúng ta đứng hạng 114 và 116 trên thế giới, trong ASEAN, chúng ta xếp hạng thấp hơn cả Lào và Campuchia.
Về hàng loạt các chỉ tiêu quan trọng khác, Việt Nam cũng đứng thấp hơn cả Lào và Campuchia, chỉ đứng trên được một mình Myanmar. Đó là chỉ tiêu về khả năng thu hút nhân tài, khả năng giữ chân nhân tài, chỉ tiêu đầu tư đào tạo nhân viên, chỉ tiêu về niềm tin để trao quyền cho cấp dưới…
Còn về chỉ tiêu xếp hạng sức khỏe của hệ thống ngân hàng, Việt Nam thậm chí còn đứng thấp hơn cả Myanmar, đứng hạng chót trong khối ASEAN.
Doanh nghiệp chúng ta sẽ ở đâu trong cuộc chơi mới?
Để chuẩn bị cho cuộc chơi mới của TPP và AEC, doanh nghiệp các nước đang có những bước chuẩn bị chiến lược rất bài bản.
Singapore đã củng cố vị thế là đầu mối của đầu tư và thương mại trong cộng đồng, là nước đầu tiên trong ASEAN ký kết Hiệp định Thương mại tự do với EU. Năm nay, Hyundai – hãng xe lớn thứ tư thế giới, đã đặt cơ sở sản xuất chiến lược tại Malaysia, để nhắm vào TPP và EAC. Mazda – hãng xe lớn thứ tư của Nhật, đã quyết định đặt cơ sở sản xuất chiến lược ở Thái Lan, cũng một phần để nhòm ngó thị trường EAC. Ngay ở Việt Nam, dễ thấy Thái Lan và Philippines đang tích cực mở rộng các chuỗi phân phối bán lẻ, quảng bá thương hiệu, để mở đường cho cuộc chinh phục thị trường chúng ta.
Trong khi đó, chúng ta nằm trong nhóm bốn nước chậm chân nhất, mà ASEAN gọi là LCMV (Lào, Campuchia, Myanmar và Việt Nam). Ba nước kia đã có những cải thiện mạnh mẽ trong mấy năm qua và đã có nhiều điểm vượt trên Việt Nam.
Trong đoạn phim mà Ban thư ký ASEAN nói về Cộng đồng Kinh tế ASEAN, hình ảnh của Singapore là xa lộ thông tin và dịch vụ tài chính, hình ảnh của Malaysia là cơ sở hạ tầng tuyệt vời, hình ảnh Thái Lan là chợ nông sản hiện đại, còn người ta đã giới thiệu Việt Nam bằng hình ảnh gánh hàng rong và đường phố ngập tràn xe hai bánh.
Chuỗi giá trị gia tăng
Trong quá trình hội nhập, các nhà kinh tế không chỉ nhìn vào kim ngạch xuất nhập khẩu, hay tổng vốn đầu tư nước ngoài. Họ còn có cái nhìn khác.
Họ xét xem FDI mang đến những gì cho doanh nghiệp trong nước. Về chỉ tiêu chuyển giao công nghệ với FDI, trong khối ASEAN chúng ta chỉ đứng trên Myanmar, đứng thấp hơn cả Lào và Campuchia. Điều đó nói lên rằng, so với các nước khác thì FDI vào nước ta chủ yếu nhắm vào lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên.
Về xuất nhập khẩu, chúng ta có những con sốấn tượng như bao nhiêu tỉ USD xuất dầu thô, than đá, mủ cao su, khoai mì, cà phê, da giày hay dệt may… Tuy nhiên, trong giá bán một ly cà phê, chúng ta là người sản xuất cà phê nhưng chỉ được hưởng không đến 1%. Trong một đôi giày hay chiếc áo bán đến tay người tiêu dùng, chúng ta tự hào với dòng chữ “Made in Vietnam” nhưng cũng chỉ hưởng quanh quẩn 1%.
Vấn đề trong hội nhập không phải là bán được bao nhiêu, mà là chúng ta chiếm được vị trí nào trong chuỗi giá trị.
Kinh nghiệm cho thấy, trong nhiều ngành chúng ta đã mất dần khỏi những vị trí có giá trị gia tăng cao như thiết kế, tạo thương hiệu, phân phối bán lẻ… để lùi dần về vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị: gia công và đào xúc hái lượm.
Doanh nghiệp quá thờ ơ?
Tuy TPP và EAC có tác động lớn hơn rất nhiều so với câu chuyện BTA năm 2001 và WTO năm 2006, nhưng tại sao hồi đó doanh nghiệp và truyền thông sôi sục, mà đến nay lại có vẻ thờơ như vậy?
Một số người lý giải là các doanh nghiệp hiện đang vất vả vật lộn hằng ngày với chuyện sống còn, không mấy người đủ thời gian và công sức lo đến tương lai dài hạn. Có vị chuyên gia nói nhiều doanh nghiệp vẫn yên tâm rằng khi nguy kịch thì Chính phủ sẽ giải cứu.
Tuy nhiên, rõ ràng là doanh nghiệp chúng ta đang ở vị thế quá thấp, và chúng ta đầu tư quá ít để chuẩn bị cho giai đoạn mới. Cải thiện trình độ marketing, trình độ sản xuất, đầu tư đào tạo nhân viên, cải thiện niềm tin… đều là việc của doanh nghiệp, không phải của Chính phủ.
Hy vọng là những lời cảnh báo này không mất hút vào khoảng không, giống như những cảnh báo sớm từ năm 2007 khi doanh nghiệp đang hào hứng với chứng khoán và bất động sản.
Hy vọng là cộng đồng doanh nghiệp sẽ có những giật mình, dù đến nay đã là muộn. Nước đã đến chân, chậm thêm sẽ là nước đến cổ.

Tuesday, 24 December 2013

701. Làm sao để đánh giá nhân viên kém?

Nguồn: DNSG online's: Gini Graham Scott, một chuyên gia quản lý nhân sự, tác giả cuốnA Survival Guide to Managing Employees from Hell (Amazon, 2007) đã đưa ra một phương cách đơn giản để đánh giá mức độ yếu kém của nhân viên. Đây giống như một bài tập gồm 30 câu hỏi. Mỗi câu, người quản lý sẽ tự hỏi và cho điểm từ 0 đến 4, sau đó tính tổng điểm để rút ra kết luận.
Thái độ
1. Nhân viên quá háo thắng khi ứng xử với tôi và người khác. Họ hay tỏ ra lấn át qua tranh luận với mọi người.
2. Nhân viên tỏ ra kiêu căng, hay xúc phạm tôi và người khác.
3. Nhân viên không nghe lời, cãi lại tôi và hành xử như là chỉ có họ mới biết cách làm việc tốt nhất.
4. Nhân viên thiếu nề nếp, ít tuân lệnh và tự làm theo ý mình.
5. Nhân viên có văn hóa ứng xử thô bạo.
6. Nhân viên thích điều khiển người khác.
Năng lực
> Bốn điểm cơ bản giúp đánh giá nhân viên
> Để được đánh giá cao trong công việc
> Để đánh giá đúng và đủ năng lực nhân viên

> Để đánh giá chính xác năng lực nhân viên
> Đánh giá năng lực để tạo động lực tăng trưởng cho nhân viên

> Đánh giá nhân sự sao cho hiệu quả?
> Phương pháp đánh giá và chọn lựa nhân sự cấp cao
7. Nhân viên thiếu năng lực, hay phạm lỗi, luộm thuộm và không biết cách làm việc.
8. Nhân viên tự cho là mình có kỹ năng nhưng thật ra họ thiếu kỹ năng.
9. Nhân viên thích tỏ ra hiểu biết nhiều, gây ra một cảm nhận nặng nề cho người khác ở nơi làm việc.
10. Nhân viên làm việc tốn quá nhiều thời gian.
11. Nhân viên lười biếng, dừng làm việc liên tục, kể cả kéo dài thời gian dành cho việc ăn uống.
12. Nhân viên không chịu được áp lực. Họ không tỏ ra đa năng và không hoàn thành công việc. Vấn đề cá nhân
13. Nhân viên quá nhạy cảm, do vậy khó trao đổi hoặc đề cập đến hiệu quả làm việc kém cỏi của họ.
14. Nhân viên luôn có những vấn đề cá nhân làm ảnh hưởng đến công việc của họ.
15. Nhân viên hay nhìn ngó công việc người khác và ca cẩm quá nhiều về người khác, hay tán chuyện về công ty hoặc về người quản lý.
16. Nhân viên có vấn đề với rượu chè hoặc nghiện ngập.
17. Nhân viên cáo bệnh quá nhiều. Tin cậy và trung thực
18. Tôi thấy nhân viên hay nói dối, khỏa lấp lỗi lầm, hoặc việc chưa làm mà nói là đã làm.
19. Nhân viên hay lấy cắp ở công ty.
20. Nhân viên hay thất hứa.
21. Nhân viên hay giành lấy công trạng của người khác.
22. Tôi tin là nhân viên có hành vi phạm tội bên ngoài nơi làm việc.

Giao tiếp

23. Nhân viên làm như đã hiểu ý tôi, nhưng thực ra không hiểu và đã làm sai.
24. Nhân viên luôn than phiền và đổ lỗi cho người khác, làm tinh thần và năng suất làm việc bị ảnh hưởng.
25. Khó trao đổi và hiểu nổi nhân viên vì họ nói năng quá kỹ thuật hoặc diễn giải quá chung chung.

Hành vi


26. Nhân viên dùng thiết bị và vật dụng công ty cho việc riêng và làm việc riêng tại công ty.
27. Nhân viên quảng bá việc riêng của họ cho nhân viên khác hoặc ở các sự kiện của công ty.
28. Nhân viên không giữ miệng và hay làm rò rỉ thông tin riêng của công ty.
29. Nhân viên hay đùa cợt, chọc phá mang tính quấy rối làm cho nhân viên khác không cảm thấy thoải mái.
30. Nhân viên không hòa đồng được với người khác, không làm việc nhóm, dù là làm việc cá nhân rất tốt.
SAU KHI CỘNG LẠI:
0-10: Đội ngũ nhân viên của bạn tuyệt vời.
10-19: Đội ngũ nhân viên của bạn nhìn chung là tốt. Chỉ có vài điểm cần cải tiến.
20-29: Bạn bắt đầu gặp khó với vài nhân viên kém cỏi, nhưng có thể cải thiện được.
30-39: Bạn gặp khó với các nhân viên kém cỏi. Đã đến lúc phải giải quyết.
40-59: Báo động. Đội ngũ của bạn là đáng báo động.
Từ 60 trở lên: Đội ngũ của bạn giống như con tàu sắp chìm. Hãy chuyển lên các xuồng cứu hộ và bỏ con tàu

TRƯƠNG CHÍ DŨNG- Giám đốc R&D, Công ty Le&Associates/DNSGCT

Sunday, 29 September 2013

694. Đại gia bí ẩn đứng sau thương vụ mua 100 máy bay và thâu tóm ngân hàng


Gia đoạn chuyển giao thường xuất hiện các đại gia lớn, những người có quan hệ và biết nắm bắt cơ hội.

=======================================================================

Theo Vietnamnets:'s Chỉ trong một ngày, hai thương vụ trị giá hàng tỷ USD là thông qua việc sáp nhập hai ngân hàng và mua 100 máy bay mới đã gây rung động thị trường Việt Nam. Điều đáng nói, cả hai đều liên quan đến một tập đoàn lớn và doanh nhân thành đạt, kín tiếng. Chỉ với hai thương vụ nay, Dn và doanh nhân này đã xứng là đại gia số 1 của năm 2013.
[IMG]
Ông Nguyễn Thanh Hùng - Chủ tịch Hội đồng quản trị Sovico Group

Hôm 25/9, hãng hàng không tư nhân Việt Nam VietJetAir đã ký kết thỏa thuận mua 92 chiếc A320 của hãng Airbus tại Paris trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức nước Pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Thương vụ trị giá khoảng 9 tỷ USD của VietjetAir gây chấn động ngành hàng không không chỉ trong nước mà cả quốc tế và nó được xem như một cú bứt phá mạnh mẽ muốn vươn rộng hơn ra các thị trường quốc tế của hãng hàng không giá rẻ mới vài năm tuổi đời này.

Cùng ngày với thương vụ “trăm tỷ USD” nói trên, giới đầu tư còn đón nhận thông tin Đại hội cổ đông bất thường Ngân hàng TMCP Đại Á (DaiABank) đã thông qua các văn kiện quan trọng để sáp nhập vào HDBank.
[IMG]
Nói đến VietJetAir và HDBank gần đây nhiều người mới biết đến Sovico Holdings nhưng với giới đầu tư tài chính, cái tên này khá quen thuộc. Chủ nhân của tập đoàn tư nhân này là vợ chồng doanh nhân Nguyễn Thanh Hùng-Nguyễn Thị Phương Thảo, là 2 trong 3 sáng lập viên xây dựng Sovico (cùng ông Nguyễn Cảnh Sơn) từ những ngày đầu thành lập - năm 1992.

Ông Hùng có bằng tiến sỹ của Viện hàn lâm khoa học Liên bang Nga; Viện sỹ Viện Hàn lâm Nghiên cứu hệ thống quốc tế Liên bang Nga, cử nhân kỹ thuật điện Đại học Kharkov. Ông Hùng được đánh giá là một nhà lãnh đạo tiên phong và có tầm nhìn trong Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là thành viên Ban tư vấn kinh doanh APEC (ABAC), Phó chủ tịch Hội doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản và thành viên của Hội hữu nghị Việt Nam – Hoa Kỳ.

Sovico Holdings hiện đầu tư vào nhiều lĩnh vực tài chính, bất động sản... và là một trong những cổ đông sáng lập của Techcombank, VIB Bank. Hiện tại, nhóm các cổ đông có liên quan đến Sovico là những cổ đông chính và nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng HDBank.

Sovico Holdings cũng là cổ đông sáng lập và cổ đông lớn nhất của hãng Hàng không tư nhân đầu tiên của Việt Nam – VietJet Air

Sunday, 22 September 2013

693. TPP – những chuẩn mực mới của thế kỷ 21

TPP – những chuẩn mực mới của thế kỷ 21
SGTT.VN - Vượt xa nội dung những hiệp định thương mại thường thấy, hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở ra viễn cảnh xây dựng một khu vực tự do thương mại rộng lớn với những chuẩn mực mới của thế kỷ 21.
Phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị đã trao đổi với TS Phạm Duy Nghĩa – giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, trưởng khoa luật đại học Kinh tế TP.HCM, chủ biên cuốn TPP: Cơ hội nào cho Việt Nam vừa ấn hành về những thách thức đang đặt ra trước cơ hội này.
Ông có hy vọng TPP sẽ là lực đẩy buộc Việt Nam giải quyết những điểm yếu của điều hành kinh tế vĩ mô?
Không thể khẳng định tham gia TPP là chúng ta có ngay liều thuốc để giải quyết tận gốc các điểm yếu kém trong điều hành vĩ mô. TPP chỉ góp thêm một cơ hội và sức ép để Việt Nam giải quyết những vấn đề nội tại. Vấn đề của Việt Nam phải tự người Việt Nam giải quyết, không thể trông chờ áp lực từ bên ngoài. Sau sáu năm gia nhập WTO, mặc dù đã có những đổi thay về thể chế đáng kể, nhưng chất lượng thể chế vẫn là một rào cản cho phát triển: tính minh bạch kém, ưu ái đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước một cách bất bình đẳng, đầu tư công kém hiệu quả, hiệu lực quản lý của chính quyền chưa cao. Quyền sở hữu còn dang dở, bởi sự bảo hộ khách quan và hiệu quả của Nhà nước đối với các sở hữu và khế ước dường như thiếu vắng…
Bỏ nhiều công sức nghiên cứu về các nút thắt trong thể chế đã cản trở phát triển kinh tế, ông nhận diện thế nào về những yếu kém trong quản trị quốc gia, quản trị doanh nghiệp nhà nước?
Theo đánh giá của ngân hàng Thế giới, tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước ở Việt Nam được cho là thấp, chất lượng chính sách và năng lực điều hành kém cải thiện, mức độ thực thi pháp luật tuân thủ chế độ pháp quyền chưa ổn định, thậm chí được đánh giá thấp trong khu vực, tính công khai minh bạch của chính sách kém được cải thiện…
Ngược lại, nếu so sánh với người láng giềng khổng lồ phương Bắc, hơn một thập kỷ tham gia WTO, nền kinh tế Trung Hoa đổi thay đáng kinh ngạc, mở ra một kỷ nguyên “thuê ngoài thể chế” để hiện đại hoá quốc gia. Đòn bẩy chiến lược WTO đã thúc ép cải cách thể chế hiệu quả. Người Trung Hoa từ năm 2006 đã áp dụng các tiêu chí quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện đại của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), từ đó cải cách 170 tập đoàn quốc hữu của họ khá thành công, rất nhiều tập đoàn trở thành những “tay chơi toàn cầu”. Ngược lại, Việt Nam đã không sử dụng được WTO để cải thiện quản trị doanh nghiệp nhà nước cũng như quản trị quốc gia. Quan sát các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, hầu hết đều gặp trục trặc, không thể linh hoạt, năng động, sáng tạo như doanh nghiệp tư nhân. Dùng tài sản quốc gia để đầu tư kinh doanh mà không kiểm soát được là một rủi ro rất lớn cho nền kinh tế, cho toàn dân, cướp đi cơ hội và để lại gánh nợ cho các thế hệ con cháu. Với Vinashin và nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước khác ở Việt Nam, Nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ, ưu ái, nguồn vốn được rót vào như một đặc ân, trên thực tế đã giúp các tập đoàn này né tránh sức ép cạnh tranh trong nước và quốc tế. Quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước cũng chưa minh bạch. Trong trường hợp mất khả năng thanh toán, người ta thường thấy Chính phủ can thiệp bằng biện pháp hành chính để cứu sự đổ vỡ của các tập đoàn này, với chi phí trải rộng ra cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân và cho thế hệ mai sau.
Để có một doanh nghiệp nhà nước mạnh, phải tôn trọng sức ép cạnh tranh, tôn trọng tính hiệu quả, quy trình quản lý minh bạch. Hiện nay, khối tài sản quốc gia vào các doanh nghiệp nhà nước thực tế là rất lớn. Con số 1.300 doanh nghiệp nhà nước được công bố mới chỉ bao gồm những doanh nghiệp 100% vốn của Chính phủ, các bộ. Ngoài ra còn rất nhiều doanh nghiệp khác có một phần vốn của Nhà nước, rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư từ các đoàn thể, tổ chức xã hội có vốn từ ngân sách. Con số này lớn hơn nhiều, có thể vượt qua hàng chục ngàn doanh nghiệp được đầu tư từ ngân sách quốc gia. Phần lớn hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp nhà nước rất thấp, lượng công việc tạo ra cũng rất thấp so với số lượng công việc tạo ra từ khối dân doanh.
Việt Nam đang đứng trước sức ép cần công khai và kiểm soát chặt chẽ hơn khối lượng tài sản rất lớn đầu tư vào khu vực doanh nghiệp có liên quan đến ngân sách quốc gia, một khái niệm rộng hơn doanh nghiệp nhà nước. Do lẫn một số chức năng, phải gánh trách nhiệm thực thi một phần chính sách Nhà nước giao nên đôi khi doanh nghiệp nhà nước kinh doanh với hiệu quả không cao. Vì thế, phải minh bạch giữa kinh doanh và những gì thuộc về chính sách, những nguồn lực, khối tài sản được sử dụng thế nào? Vấn đề thứ hai, phải minh định ai là ông chủ của doanh nghiệp nhà nước: uỷ ban, Chính phủ, hay bộ? Nhưng bộ làm sao quản lý? Thực tế phải uỷ quyền cho một số cán bộ, công chức đại diện… Quyền sở hữu chồng chéo, được thực thi phân tán lại thiếu kiểm soát đã làm cho khối tài sản đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước bị hao hụt trầm trọng. TPP không phải bài thuốc, mà chỉ tạo thêm sức ép. Hơn lúc nào hết, cần minh định rõ ai thực hiện các quyền sở hữu cụ thể nào trong doanh nghiệp nhà nước, kiểm toán, đánh giá đo lường với mục tiêu đề ra, kiểm soát gắt gao doanh nghiệp nhà nước nhiều hơn, tựa như các công ty đã niêm yết trên sàn chứng khoán phải có trách nhiệm minh bạch quản trị với các cổ đông.
TPP được ký kết sẽ mở ra những cơ hội nào cho Việt Nam?
Nội dung TPP chưa được đàm phán xong, các cam kết chưa được công bố, song thông tin về nội dung đàm phán thu lượm từ nhiều nguồn khác nhau tiết lộ những sức ép rất lớn đang đặt ra cho Việt Nam: xoá bỏ hầu hết thuế quan, mở cửa thị trường, thắt chặt những chuẩn mực bảo hộ sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn lao động, các tiêu chuẩn kỹ thuật, và cam kết xây dựng chính quyền minh bạch… hướng tới xoá bỏ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hoá, dịch vụ và tư bản được lưu thông trong nội khối ngày một dễ dàng, nhà đầu tư an tâm hơn trong một môi trường thể chế ổn định… Trong đó, yêu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ được nâng cao, với những chế tài khắc nghiệt hơn khi các thành viên vi phạm thương mại tự do. Rồi còn những thể lệ để kiểm soát đầu tư công, đòi hỏi công khai toàn bộ ngân sách quốc gia, mua sắm của chính quyền; quyền tự do lao động, bảo vệ giới thợ… Các thể chế đáp ứng chuẩn mực và thông lệ quốc tế, mang tính phổ cập toàn cầu chính là lợi điểm tạo sức ép cải cách thể chế từ bên ngoài giúp phá vỡ sức ỳ chống trả dai dẳng từ những thói quen cũ.
Gia nhập cuộc chơi TPP sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, sòng phẳng giữa các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp dân doanh?
Những cam kết từ TPP hy vọng sẽ kích thích sự tìm hiểu của doanh nghiệp và công chức Việt Nam. Khác với đàm phán gia nhập WTO, quá trình đàm phán TPP mở ra cơ hội cho doanh nghiệp có tiếng nói. Nỗ lực để kịp thời ra mắt cuốn sách TPP: Cơ hội nào cho Việt Nam, chúng tôi mong muốn thông điệp “gia nhập cuộc chơi TPP, hằng hà sa số doanh nghiệp tư nhân năng động mới là chìa khoá cho phát triển” sẽ lan toả tới toàn xã hội. Nếu cứ để doanh nghiệp nhà nước né tránh sức ép cạnh tranh, được ưu ái nhiều độc quyền kinh doanh, cơ hội tiệm cận đất đai và tín dụng từ nguồn lực của Nhà nước, sẽ xuất hiện những nhóm thế lực kiểm soát tài nguyên kinh tế của quốc gia. Quốc gia nào cũng có doanh nghiệp nhà nước, nhưng thường chỉ kinh doanh những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không làm được, hoặc không có động cơ để đầu tư. Hy vọng với TPP, các thể chế sẽ được cải cách để thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển.
TPP chỉ góp thêm một cơ hội và sức ép để Việt Nam giải quyết những vấn đề nội tại. Vấn đề của Việt Nam phải tự người Việt Nam giải quyết, không thể trông chờ áp lực từ bên ngoài.
TPP buộc các doanh nghiệp phải quan tâm, hiểu những luật chơi khi thị trường mở rộng đáng kể, nhất là thị trường Hoa Kỳ, khi thuế suất được cam kết giảm, sẽ tạo cơ hội cho những ngành như da giày, dệt may xuất khẩu, đồ gỗ, linh kiện lắp ráp. Nhưng ngược lại, Việt Nam cũng mở cửa cho các nước nội khối TPP, những ngành từng được bảo hộ cao ở Việt Nam như lắp ráp ôtô chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Ngành chăn nuôi, sản phẩm nông nghiệp của họ tiên tiến hơn, chất lượng tốt hơn, khi thuế quan giảm sản phẩm nội địa của nước ta sẽ bị thách thức.
TPP hy vọng cũng sẽ dẫn đến tái phân bổ về đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài. Những sản phẩm dệt may Việt Nam vừa có cơ hội, nhưng cũng đứng trước nhiều thách thức nếu không chứng minh được quy tắc, tiêu chuẩn, giấy chứng nhận về xuất xứ hàng hoá. Kéo theo luồng đầu tư từ Trung Quốc, Hàn Quốc, chuyển dịch đầu tư hy vọng Việt Nam có thêm giá trị gia tăng, sử dụng đầu tư nước ngoài như những cú hích. Ngành lắp ráp xe máy hình như đã là một ví dụ thành công khi tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm cao. Nếu Chính phủ Việt Nam khuyến khích đầu tư nước ngoài có trọng điểm trong khi doanh nghiệp tư nhân, các ngành công nghệ phụ trợ phát triển, FDI sẽ có hiệu ứng lan toả. Còn nếu FDI chỉ để sử dụng nguồn lao động rẻ thì… coi như là mở cửa dâng hiến thị trường, chúng ta góp lao động của các thế hệ công nhân trẻ tuổi và tài nguyên cũng như môi trường sống của quốc gia để làm giàu cho tư bản nước ngoài.
TPP có là cơ hội để mỗi người lao động hiểu và giành lấy quyền chính đáng của mình?
Khi đặt bút ký TPP, Việt Nam cần xem xét thực tiễn pháp luật có điểm nào lệch so với những cam kết từ TPP hay không? Nếu không nghiêm túc làm như vậy, tôi e rằng thực tiễn pháp lý nước ta có thể là nguyên cớ dẫn tới những vụ khiếu kiện tiềm ẩn sau này. TPP như chúng tôi tìm hiểu không có nội dung đáng kể nào cam kết về nhân quyền hay tự do dân chủ, song có nhiều cam kết về tiêu chuẩn và việc bảo vệ quyền lợi giới thợ, ví dụ quyền thành lập hội đoàn. Hiến pháp Việt Nam đều ghi quyền tự do lập hội. Tuy nhiên, những cuộc đình công của công nhân Việt Nam vừa qua đều xuất phát từ những vấn đề rất căn bản như bị quỵt tiền lương, lao động phải làm việc quá sức, bị giới chủ hành hung… Quyền của giới thợ bắt đầu từ quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của mình. Nếu bị khinh bỉ, ngược đãi, đánh đập, công nhân phải có quyền chống lại các hành vi đó để bảo vệ nhân phẩm của mình. Nếu bị kiện vì pháp luật quốc nội không bảo vệ quyền của giới thợ, sau khi được tài phán bởi một thiết chế tựa như trọng tài giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư với các quốc gia nội khối TPP, các quốc gia khác sẽ giành quyền rút lại những ưu đãi thuế quan trước đó. Đừng vội mơ dễ dãi hưởng thuế suất 0% như một bữa tiệc mà không phải trả tiền, qua một đêm thuế suất có thể vọt trở lại 30% như cũ bởi vô số các biện pháp bảo hộ mậu dịch tiềm ẩn được che đậy khéo léo dưới các tiêu chuẩn kỹ thuật, lao động hay môi trường.
Vấn đề thứ hai là các tổ chức công đoàn của Việt Nam chưa đủ mạnh mẽ để bảo vệ lợi ích công nhân. Miếng cơm manh áo của cán bộ công đoàn có khi còn lệ thuộc vào giới chủ, nên rất khó khăn khi chống lại sức ép của giới chủ.
thực hiện: Kim Yến

679.0 Hướng dẫn cài đặt AD RMS server ( Active Directory Rights Management Services) có trong Windows Server 2012.

Nguồn: https://mdungblog.wordpress.com/2018/06/21/simple-guide-huong-dan-cai-dat-ad-rms-windows-server-2012-r2/   Hôm nay mình xin giới thiệ...