Tài liệu Tham khảo đặc biệt
Thứ sáu, ngày 4/11/2011
TTXVN (Hồng Công 26/10)
Bài viết trên tờ “Tín báo” số ra ngày 25/10 của Vương Đỉnh Kiệt, chuyên gia phân tích chiến lược của Uỷ ban Quỹ Năng lượng Trung Hoa.
Tiếp sau việc Nhật Bản và Philíppin cùng thảo luận đối sách đối với Trung Quốc nhân chuyến thăm Nhật Bản của Tổng thống Philíppin Aquino, Ấn Độ lại cùng Việt Nam ký kết hiệp định khai thác dầu khí ở Biển Đông, quyết định tiến hành liên doanh khai thác tài nguyên tại vùng biển Trung – Việt có tranh chấp.
Vấn đề Biển Đông lại nóng lên. Trong đợt leo thang mới này, rất nhiều báo chí và học giả Trung Quốc chỉ tập trung tìm hiểu sự tồn tại của “bàn tay phía sau”, điều này đã làm lộ rõ “điểm mù” chiến lược tồn tại từ rất lâu của giới học giả chiến lược Trung Quốc: đối với nước nhỏ, nhất là nước nhỏ thuộc thế giới thứ ba, thường có cái nhìn phiến diện kiểu đồng tình, không để ý đến việc loại quốc gia này có thể diễn một vai trò quốc tế mang tính bành trướng. Khi sự việc xảy ra, các học giả chỉ vội vã tìm kiếm bàn tay nước lớn đứng ở phía sau, quên rằng trong lịch sử ngoại giao của nhân loại, tuy có rất nhiều ví dụ về việc nước lớn dùng sức mạnh của mình cưỡng chế nước nhỏ khuất phục, song cũng có không ít ví dụ về việc nước nhỏ dùng “chiến lược quá giang” lợi dụng nước lớn để đạt được mục đích chiến lược của mình.
“Chiến lược quá giang” – mượn sức mạnh chống lại sức mạnh
Điều đáng chú ý là “chiến lược quá giang” có hai loại, một loại là thuận gió quá giang, thực chất là một loại sách lược đi theo nước lớn. Giống như thời kỳ Hitler chia cắt Séc và Xlôvênia, các nước nhỏ xung quanh thừa cơ trỗi dậy là một ví dụ.
Một loại “quá giang” khác khá phức tạp và tinh vi. Đó là một quốc gia vốn dĩ ở vị trí không thể “quá giang”, dùng sách lược lôi kéo nước lớn, tạo ra khả năng “quá giang”, tiến tới có thể lợi dụng khoảng trống quyền lực được tạo ra bởi xung đột giữa các nước lớn để tiến hành bành trướng, hoặc có thể mượn tay của nước lớn thay mình loại bỏ sự đối lập. Giống như Nhật Bản sau thời Minh trị Duy tân, khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh và Nga lúc đó, thông qua sự bảo đảm đồng minh Anh – Nhật phát động hai cuộc chiến tranh Giáp Ngọ và Nhật – Nga, đây là một ví dụ thành công.
Điều mỉa mai là chính Nhật Bản sau này đã loại trừ tận gốc cơ sở nền móng của Anh tại Viễn Đông, trong khi Nga và Trung Quốc lại đều là đồng minh của Anh trong hai cuộc Đại chiến Thế giới. Mặc dù vậy, nước Anh trong thời gian dài vẫn không đếm xỉa đến nguy cơ Nhật Bản, thậm chí sau Đại chiến Thế giới thứ Nhất còn giúp Nhật Bản xây dựng hải quân và không quân, đồng thời chuyển nhượng kỹ thuật tàu sân bay cho Nhật Bản. Phải thừa nhận rằng người Nhật lúc đó có con mắt chiến lược.
Ví dụ khác là trong những năm 1950, Tưởng Giới Thạch có ý đồ thông qua Chiến tranh Triều Tiên để thu hút lực lượng Mỹ nhảy vào cuộc nội chiến toàn diện của Trung Quốc, ý tưởng này tuy được MacArthur ủng hộ, song do chiến lược “châu Âu là số một” của Oasinhtơn và sự thận trọng của Tổng thống Truman nên nó không thực hiện được, đây là một ví dụ về thất bại.
Tuy nhiên, nước lớn lại thường không chú ý khả năng “chiến lược quá giang” thứ hai này. Do có ưu thế cố hữu về không gian, tài nguyên nên khi đối mặt với các nước nhỏ, các nước lớn thường dễ bị mất cảnh giác. Có nước lớn mất cảnh giác do sự xót thương đặt nhầm chỗ, có nước lớn lại do quá tự tin cho rằng có thể biến nước nhỏ thành quân cờ khống chế trong tay, coi thường vì quân cờ này đã chết, song những nước này vẫn sống, họ không hề nhất nhất hùa theo nước lớn, song cũng không thể trực tiếp thách thức nước lớn mà khéo léo mượn sức mạnh để chống lại sức mạnh. Đây chính là sách lược mà Việt Nam và Philíppin đang sử dụng.
Nước lớn thận trọng phòng ngừa hậu quả mang tính tai hoạ
Nhưng nói một cách tổng thể, tư thế của Mỹ trong vấn đề Biển Đông vẫn khá thận trọng. Ngày 10/10, trên trang web chính thức của Tập đoàn RAND có bài viết với tiêu đề “Mỹ không có nhiều khả năng gây chiến với Trung Quốc, mà phải áp dụng biện pháp duy trì hoà bình”, trong đó đã chỉ rõ rằng “nếu Mỹ – Trung xảy ra xung đột quân sự thì hậu quả đối với cả hai bên sẽ mang tính tai hoạ”, điều này đã diễn đạt một cách uyển chuyển sự thận trọng của Mỹ.
Đúng là do sự thận trọng của Mỹ nên Việt Nam và Philíppin mới có thể tiến hành chuyển hướng chiến lược mới. Thoả thuận Nhật Bản – Philíppin và hợp tác Việt Nam – Ấn Độ đã thể hiện một chính sách mới cực kỳ linh hoạt, nó bao gồm hai khả năng có thể biến đổi bất kỳ lúc nào.
Thứ nhất, trong tình hình Mỹ đang giữ khoảng cách, cái hay của việc liên thủ với Nhật Bản và Ấn Độ là ở chỗ nếu không thể mượn được đao của một siêu cường duy nhất thì chí ít cũng cần mượn đao của cường quyền khu vực nhỏ hơn.
Thứ hai là chưa rõ đây có phải là một chiến lược vu hồi xảo quyệt hay không. Mọi người đều biết, mấy năm gần đây Mỹ đang điều chỉnh một cách mạnh mẽ cơ cấu chiến lược châu Á – Thái Bình Dương. Cho dù Brzeinski vẫn nhìn nhận tốt về Trung Quốc, nhưng đường đi thực tế của chính phủ Mỹ vẫn là lấy đồng minh bốn bến Mỹ – Nhật Bản – Ôxtrâylia – Ấn Độ để lập một trật tự mới ở châu Á, tạo dựng một NATO phiên bản châu Á để bao vây Trung Quốc. Trong tình hình này, Việt Nam hợp tác với Ấn Độ, Philíppin bắt tay chặt với Nhật Bản, lôi hai gọng kìm của thế bao vây 4 phía này lại, cũng chính là đã kéo được hai chân của Mỹ ở lại.
Ngày 28/9, Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã nhóm họp Hội nghị thứ trưởng quốc phòng với mười nước ASEAN tại Tôkyô, chủ đề thảo luận là trước những hoạt động ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại Biển Đông, hợp tác giữa ASEAN và Nhật Bản, Mỹ là rất quan trọng. Nhưng cuối cùng có hợp tác hay không thì quyền quyết định nằm ở Oasinhtơn chứ không phải Tôkyô.
Nếu đứng ở lập trường của Mỹ, cho dù xuất hiện tình huống nào đề cập ở trên thì trước tiên đều có thể làm tổn hại tới lợi ích toàn cầu của Mỹ. Nếu trường hợp thứ nhất xảy ra, điều này có nghĩa Mỹ sẽ mất đi ảnh hưởng chiến lược và khả năng khống chế đối với Nhật Bản và Ấn Độ. Nếu trường hợp thứ hai xảy ra thì có nghĩa là Trung – Mỹ có thể xảy ra xung đột mang tính sát thương lẫn nhau, nhưng chưa rõ có thể tạo ra chỗ trống quyền lực và chiến lược hay không.
Nước nhỏ bành trướng và cơ hội hợp tác Trung – Mỹ
Từ điểm trên, việc Mỹ và Trung Quốc đang dò xét đồ của nhau chi bằng cùng cảnh giác trước sự lật đổ mang tính kết cấu của hoà bình khu vực do chủ nghĩa bành trướng của nước nhỏ gây ra, nhất là chủ nghĩa bành trướng của nước nhỏ được nâng đỡ của cường quyền khu vực – nhất là trong bối cảnh Nhật Bản và Ấn Độ qua mặt Mỹ câu kết đồng minh, một mặt uy hiếp lợi ích của Trung Quốc một cách chưa từng có, đồng thời cũng làm lung lay hệ thống bá quyền toàn cầu của Mỹ. Trong tình hình này, nếu Trung Quốc nhân nhượng các nước nhỏ liên quan, đồng thời quá tuyeê truyền cho “bàn tay phía sau” của Mỹ, làm như vậy sẽ tạo khe hở cho một số nước nhỏ triển khai sách lược, tạo khả năng để Mỹ can thiệp vào tranh chấp Biển Đông từ phía đối lập.
Đáng tiếc, có quá nhiều học giả Trung Quốc vẫn bị hạn chế trong cảm nhận sai lầm chung về các nước đang phát triển ở thế giới thứ ba, thậm chí không muốn thừa nhận rằng các nước nhỏ đang phát triển cũng có thể liên kết với chủ nghĩa bành trướng và bá quyền khu vực. Nhưng chỉ cần nhìn lại lịch sử là không khó để nhận ra, nước Đức-Phổ và Anh thời cận đại, Nhật Bản sau Minh trị Duy tân và cả Việt Nam những năm 1970, những nước này tuyệt đối đều là những nước nhỏ và cũng là những nước đang phát triển tại các thời điểm đó nên không ai nghi ngờ họ chọn chiến lược chủ nghĩa bành trướng. Trong đó, Anh trở thành đế quốc mặt trời không bao giờ lặn, sự bành trướng của Phổ đã gây ra Đại chiến Thế giới thứ hai, Nhật Bản là mảnh đất cội nguồn của chính sách xâm lược Viễn Đông. Còn sở dĩ Việt Nam chưa đạt được thành tựu “tương tự” bởi lúc đó dã bị sự kiềm chế kịp thời của liên minh Trung – Mỹ.
Trên thực tế, ngay từ năm 2004, Brzezinski đã làm thức tỉnh Chính phủ Mỹ, nếu thông qua phương thức tạo ra sự đối kháng giữa Trung Quốc với các nước xung quanh và Mỹ ở sau lưng điều khiển, có thể thu được lợi ích chiến thuật trong thời gian ngắn nhưng sẽ bị mất đi lợi ích chiến lược lâu dài, đây đúng là một lời dự đoán nhìn xa trông rộng. Đến nay, một hậu quả không mong đợi của sóng gió Biển Đông chính là khiến chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Oasinhtơn đi tới một ngã tư mới. Trong khi đó, phát triển kinh tế và “giấu mình chờ thời” của Trung Quốc cũng đã được nâng cao lên, đã bước vào lĩnh vực tương tác chiến lược của chính trị quốc tế. Chiến lược của Nhật Bản và Ấn Độ ở Biển Đông chính là đưa đến cho Trung – Mỹ một cơ hội hợp tác hiếm có, thực tế cuối cùng sẽ chứng minh, hai nước lớn Trung – Mỹ hợp tác sâu sắc như thế nào mới thực sự xác lập được trụ cột hạt nhân cho sự ổn định của Biển Đông và thậm chí cả khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
***
TTXVN (Niu Đêli 29/10)
Dưới đầu đề “Quỹ đạo cưỡng bức”, tạp chí “Các vấn đề chiến lược” (Ấn Độ) tháng 9/2011 đăng bài của Tiến sĩ W Lawrence S Prabhakar cho rằng Trung Quốc hiện mắc hội chứng theo đuổi quyết liệt các mục tiêu phát triển kinh tế và chiến lược giống như nước Đức thời Bismark trước đây. Biển Đông là một nơi để Trung Quốc thể hiện rất rõ chiến lược của họ nhằm đạt được các kết quả mong muốn trong tranh chấp tại khu vực này.
Theo Tiến sĩ W Lawrence S Prabhakar, Bắc Kinh cho rằng họ buộc phải giảm bớt điểm yếu của tuyến vận chuyển kéo dài bằng cách thiết lập khả năng tiếp cận mạnh mẽ và tiên tiến tuyến vận tải này dựa trên sức mạnh của mình và vô hiệu hoá ý định của bất kỳ đối thủ nào.
Biết rõ yếu điểm của tuyến đường hàng hải eo biển Malắcca, Trung Quốc quan tâm thiết lập các liên minh song phương lâu dầu ở khu vực và thường ủng hộ các dự án xây dựng hạ tầng dân sự và quân sự cũng như trợ giúp rất lớn cho các chương trình hiện đại hoá quân sự của các nước này.
Trung Quốc đang tăng cường an ninh cho các tuyến vận tải biển cùng với các quan hệ đối tác lâu dàu giúp làm tăng sự kiểm soát đối với khu vực và khát vọng quyền lực cho họ. Một phần của chiến lược nổi lên và sự hung hăng của Trung Quốc là do có các cơ hội “thay đổi quyền lực” ở châu Á Thái Bình Dương, theo đó sức mạnh của Mỹ đang giảm sút và sự nổi lên mạnh mẽ của Trung Quốc cho phép họ được đứng ở “tâm chấn” của khu vực.
Nói một cách khác, Bắc Kinh nhận thấy rằng sau vài thế kỷ họ hiện đang có vị thế chiếm lĩnh Trung tâm thế giới (Middle Kingdom). Tuy nhiên, ở thời điểm này việc Trung Quốc nổi lên một cách hoà bình hay nổi lên một cách hung hăng sẽ thể hiện qua cách Bắc Kinh dàn xếp như thế nào về sự nổi lên đó của họ với khu vực Đông Nam Á và Đông Á.
Lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc đã liên tục được tăng cường kể từ năm 2001 đến nay. Trong sự kiện được công bố rộng rãi về vụ máy bay EP-3 US của Mỹ trinh sát đảo Hải Nam tháng 4/2001, máy bay này đã va chạm với một máy bay chiến đầu của Trung Quốc và buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống căn cứ không quân Lingchui tại đảo Hải Nam trong khi máy bay đánh chặn của Trung Quốc không bị rơi.
Trong khi chiếc EP-3 vẫn tiến hành các chuyến bay do thám thường xuyên, việc cố ý gây ra vụ va chạm cho thấy Bắc Kinh lo ngại việc mở rộng các cơ sở hạ tầng của hải quân và không quân của họ trên đảo Hải Nam, trong đó có căn cứ Tam Á dành cho hải quân, bị phát hiện.
Một thập kỷ xây dựng lực lượng hải quân và không quân tại Hải Nam đã biến đảo này thành một “tàu sân bay không thể bị đánh chìm” để từ đó triển khai vào Biển Đông những loại vũ khí có uy lực lớn từ trên đất liền, trên biển và trên không. Từ năm 2003, hải quân Trung Quốc đã nổi lên thành một quân chủng quan trọng của quân đội nước này và sự phát triển mạnh mẽ của nó được thể hiện qua việc nhiều căn cứ được xây dựng và hạm đội được mở rộng. Sự thay đổi của quân chủng này có tính chất quyết định đối với khả năng tác chiến của hải quân Trung Quốc ở khu vực.
Sự nổi lên về quyền lực cứng của Trung Quốc dựa vào việc hiện đại hoá quân đội được tiến hành thông qua các chương trình ráo riết mưa sắm trên quy mô lớn các loại vũ khí từ Nga dành cho hải quân và liên doanh với Nga sản xuất tại Trung Quốc các thiết bị dành cho không quân.
Thay đổi quy mô hoạt động
Kết quả của các chương trình trên đã tạo ra bước đột phá trong việc làm mới các hệ thống vũ khí của Trung Quốc để thay thế cho các thế hệ vũ khí lạc hậu mua từ thời Liên Xô vào những năm 1950. Kết quả là quân đội Trung Quốc đã sở hữu các hệ thống vũ khí mô phỏng theo các hệ thống vũ khí Liên Xô/Nga và chú ý nhấn mạnh về mặt học thuyết.
Từ năm 1990, hải quân Trung Quốc bổ sung thêm 8 loại tàu khu trục gồm 26 chiếc mang tên lửa, trong đó có hai chiếc mua từ Nga thuộc loại Sovrremenny (dự án 956 EM), số còn lại được đóng trong nước, 49 tàu hộ vệ mang tên lửa thuộc 9 loại khác nhau. Ngoài ra, lực lượng này cũng được trang bị thêm 27 tàu đổ bộ cỡ lớn, 31 tàu đổ bộ cỡ trung bình, 58 tàu ngầm trong đó có 4 loại tàu ngầm tự đóng và hai loại EKM-656 và EKM-877 mua của Nga.
Hải quân Trung Quốc có lực lượng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân lớn nhất ở khu vực, trong đó có hai loại thuộc lực lượng tàu tấn công và tàu mang tên lửa đạn đạo.
Hải quân Trung Quốc có hơn 200 máy bay và lực lượng lớn tên lửa bao gồm các tên lửa hành trình tấn công trên bộ và tên lửa chống tàu chiến gồm nhiều loại được sản xuất trong nước hoặc mua từ Nga tạo ra sức mạnh áp đảo các lực lượng hải quân và không quân ở khu vực.
Tuy nhiên, một diễn biến quan trọng năm 2011 là Trung Quốc thúc đẩy việc xây dựng tàu sân bay để kết hợp với lực lượng tàu khu trục – hộ vệ và tàu ngầm.
Sự thay đổi quy mô hoạt động được coi là có tầm quan trọng thứ hai đối với sự nổi lên của hải quân và lực lượng máy bay chiến đấu của Trung Quốc. Theo chiến lược biển của Trung Quốc về 3 chuỗi đảo bao quanh, Trung Quốc sẽ xây dựng lực lượng hải quân tập trung mạnh vào khả năng tấn công trong chuỗi đảo thứ nhất và một phần ở chuỗi đảo thứ hai.
Sự thay đổi hoạt động của Trung Quốc thể hiện qua việc kết hợp giữa việc phát triển các khả năng hiệp lực quan trọng với các biện pháp chống tiếp cận bằng các tên lửa đạn đạo chống tàu chiến mà Bắc Kinh đặt tên là “vũ khí tiêu diệt” tàu sân bay.
Với tầm bắn được quảng cáo là từ 1.500 tới 2.000 km, tên lửa đạn đạo chống tàu chiến CSS-DF-21D có thể kiềm chế, giữ chân các lực lượng tấn công và đổ bộ Mỹ đứng ngoài khu vực hoạt động của hải quân Trung Quốc ở chuỗi đảo thứ nhất.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tên lửa (đất đối không, đất đối đất cũng như tên lửa hành trình chống tàu chiến và tấn công các mục tiêu trên bộ) với các hoạt động tác chiến của lực lượng tàu ngầm tạo cho Bắc Kinh khả năng vững chắc và tin cậy bên trong chuỗi đảo thứ nhất của họ và khả năng đáng kể trong chuỗi đảo thứ hai. Việc triển khai các tên lửa CSS-DF-21D sẽ tạo cho Trung Quốc lợi thế to lớn trong việc lựa chọn các biện pháp đánh đòn phủ đầu và gây sức ép trong một cuộc khủng hoảng ở khu vực.
Tiến hành hoạt động quân sự phối hợp là một khả năng khác của Trung Quốc trong tiến trình thay đổi phương cách hoạt động có liên quan tới các khả năng kết hợp các lực lượng ven biển, trên biển và vũ trụ bằn toàn bộ hệ thống các khả năng tiến hành chiến tranh và Trung Quốc đã hình thành quan niệm “Thông tin hoá” các khả năng bảo đảm ý đồ chiến thuật và chiến lược và tính cơ động cho việc thay đổi hoạt động của họ.
Các khả năng chiến lược mới đã được thể hiện trong việc phát triển và triển khai năng lực đánh trả của hạm đội các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo loại 04 lớp Tấn được trang bị tên lửa IL-2-SLBM và một số loại tên lửa hành tình mang đầu đạn hạt nhân trang bị trên tàu loại 093 lớp Thương.
Các loại tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc tạo ra mối đe doạ hạt nhân thực sự trên chiến trường. Tại căn cứ hải quân Tam Á, Trung Quốc triển khai lực lượng tàu ngầm tấn công với khả năng hoạt động và hoả lực tấn công rất nguy hiểm có thể ngăn chặn bất kỳ sự phối hợp nào của hải quân các nước trong khu vực trừ phi có sự can thiệp của các tàu ngầm hạt nhân Mỹ vào một cuộc xung đột khu vực chống hải quân Trung Quốc.
Cán cân lực lượng khu vực
Để chống lại sức mạnh quyết đoán đang nổi lên của Trung Quốc ở Biển Đông và tăng cường mạnh mẽ lực lượng hải quân và không quân, các lực lượng hải quân và không quân các nước khu vực đang phải đối mặt với một thách thức khổng lồ.
Bắc Kinh sẽ thận trọng trong việc sử dụng vũ lực và triển khai các loại vũ khí chiếm ưu thế của họ vì e ngại điều đó sẽ kích động phản ứng từ phía Mỹ. Trung Quốc sẽ sử dụng hiệu quả kép của đòn tấn công có sức hấp dẫn về sự “nổi lên hoà bình”, sức cuốn hút về kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế của các nước ASEAN với Trung Quốc – mọi thứ trong phạm vi ảnh hưởng của các hệ thống phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế trong khu vực như Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) và diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC) – để can dự cùng với tập thể các nước ASEAN.
Tuy nhiên, Bắc Kinh sẽ tìm cách giải quyết riêng rẽ các vấn đề tranh chấp với từng nước ASEAN một. Họ cũng muốn sử dụng một loạt công cụ như luật phát nước họ và diễn giải Công ước của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOC) năm 1982 theo cách của họ để có thể gạt bỏ những tuyên bố chủ quyền riêng của các nước ASEAN.
Việc so sánh về các lực lượng tác chiến, khả năng cơ động và thay đổi về học thuyết giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á cho thấy sự chênh lệch quá lớn mà phần yếu thế thuộc về các nước ASEAN.
Trong khi các nước ASEAN có một khung kinh tế và chính trị khu vực mạnh, thì khung hợp tác quốc phòng của khối này mờ nhạt kể từ khi Tổ chức phòng thủ chung Đông Nam Á (SEATO) bị lu mờ.
Nhìn chung, trong khi Mỹ cam kết đối với an ninh ở Đông Nam Á trên cơ sở của sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau, thì việc tổ chức khởi động lại hoạt động của hiệp ước phòng thủ với Mỹ và các nước ngoài khu vực vẫn chưa được định hình tại khu vực. Nói một cách khác, quyền lực nổi lên của Trung Quốc trên thực tế đang kích động việc thảo luận ở khu vực về sự cần thiết thành lập một NATO châu Á.
Tuy nhiên, xu hướng này dường như không tiến triển do yếu tố phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Mặc dù vậy, Mỹ đã tăng cường sự hiện diện tại khu vực này về mặt kinh tế và chiến lược. Mỹ đã tăng cường các hoạt động giao lưu quân sự với quân đội các nước Đông Nam Á và đặt cược vào sự dính líu của mình ở Biển Đông.
Rõ ràng là có sự thiếu cân bằng về các khả năng. Đông Nam Á có một cấu trúc hải quân và không quân đa dạng về các phương tiện cũng như về số lượng các phương tiện chiến đấu.
Mức độ hoạt động, khả năng chiến đấu lâu dài, sự phù hợp của học thuyết với các hoạt động tác chiến kéo dài, sự đồng bộ của các loại vũ khí hạng nặng và cơ sở công nghệ-chiến lược đảm bảo cho việc duy trì khả năng đối phó với Trung Quốc hiện đang xem xét tại các nước như Việt Nam, từng nổi danh đã “dạy cho Trung Quốc một bài học” khi Bắc Kinh xâm lược Việt Nam để “dạy Hà Nội một bài học” hồi năm 1979.
Xinhgapo là một điển hình nữa về trình độ công nghệ-chiến lược ở mức độ cao và nền tảng vững chắc trong học thuyết chiến tranh phối hợp, hệ thống trung tâm điều hành các chiến dịch và khả năng công nghệ tiến hành cuộc chiến hiện đại.
Malaixia có các đơn vị chiến đấu gây ấn tượng, song có rất ít kinh nghiệm chiến đấu và hoạt động cho các lực lượng vũ trang của mình trừ qua một lần xung đột với Inđônêxia.
Lực lượng vũ trang của Inđônêxia có số lượng đông song trang bị lạc hậu. Philíppin có khả năng quân sự yếu nhất không thể đương đầu với Trung Quốc ngay cả trong các hoạt động phòng thủ.
Hồi tháng 3 và tháng 7 năm 2010, Hải quân Trung Quốc đã tiến hành một trong những cuộc tập trận lớn nhất của họ, trong đó có các vụ phóng tên lửa tại khu vực Đông Nam Á.
Nhằm vào từng đối thủ chính trong cuộc tranh chấp tại Biển Đông, các cuộc tập trận này đã nhấn mạnh ý định cứng rắn của Bắc Kinh trong việc kết hợp thực hiện các biện pháp cứng và mềm nhằm tái khẳng định tuyên bố chủ quyền của họ đối với Biển Đông.
Cuộc tập trận này đánh dấu một mốc xác định về sự đe doạ ngay càng tăng của Trung Quốc đối với Đông Nam Á, trong khi họ vẫn không ngớt lời nói về sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với ASEAN.
Tạo sức ép chiến lược nhằm đạt kết quả trong tranh chấp
Tiến trình tăng cường hiện đại hoá quân đội và khả năng tác chiến của Trung Quốc đang gây tác động và làm phức tạp tình hình an ninh khu vực. Bắc Kinh theo đuổi chiến lược ngoại giao và quân sự mà họ gọi là “trỗi dậy hoà bình” bằng cách đề xuất các cuộc trao đổi ý kiến như là các vấn đề thử nghiệm, song đồng thời tiến hành các cuộc tập trận hải quân, các hoạt động thuỷ văn hung hăng, trái hẳn với Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) mà họ đã ký với ASEAN năm 2002.
Trên các diễn đàn ngoại giao tập thể, Trung Quốc luôn thể hiện thái độ tham vấn thân tình, song lại leo thang căng thẳng với những đối tượng chọn lọc như Việt Nam và Philíppin.
Việc Trung Quốc đã triển khai tên lửa CSS-5/DF-21D và tăng cường các khả năng tiến hành chiến tranh phối hợp, hệ thống trung tâm chỉ huy chiến tranh và tăng cường kho vũ khí chiến lược đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng Bắc Kinh đang tăng cường vị thế tấn công-phòng thủ để ngăn chặn sự can thiệp từ bên ngoài vào khu vực này.
Một khi khả năng ngăn chặn sự can thiệp vào khu vực tỏ ra đáng tin cậy với việc sử dụng các loại tên lửa hành trình chống tàu chiến và tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay, khi đó độ tin cậy về sức mạnh yểm trợ của hải quân và không quân Mỹ đối với khu vực Đông Á và Đông Nam Á sẽ bị tổn thất.
Tốc độ hiện đại hoá tăng nhanh chóng của quân đội và hải quân Trung Quốc, chiến lược mới về phối hợp giữa thông tin hóa với mức độ nguy hiểm của tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân tạo ra mối đe doạ thực sự mà Bắc Kinh có thể sử dụng để tạo ra sức ép chiến lược nhằm đạt được các kết quả mong muốn trong tranh chấp tại Biển Đông.
Điều đó đòi hỏi các nước Đông Nam Á phải có sự hợp tác chiến lược lớn hơn và xây dựng kho vũ khí và khả năng hoạt động cần thiết như một phương tiện răn đe nhằm ngăn chặn sự hiếu chiến của Trung Quốc. Khả năng Trung Quốc thách thức sự can thiệp của Mỹ nhằm bảo vệ lợi ích an ninh khu vực là sự thay đổi trò chơi nghiêm trọng, trong đó Trung Quốc tỏ ra như một “cường quốc bất mãn” có khuynh hướng bá quyền bất chấp việc nước này luôn lớn tiếng tuyên bố về “sự trỗi dậy hoà bình” mang đặc sắc Trung Quốc
***
TTXVN (Bắc Kinh 31/10)
“Thời báo hoàn cầu” của Trung Quốc số ra ngày 31/10 đăng bài viết của Lâm Lợi Dân, Nghiên cứu viên thuộc Viện nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại Trung Quốc, cho rằng vấn đề Nam Hải (Biển Đông) đã vượt ra ngoài phạm trù tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải thông thường, và nâng lên thành vấn đề mang tính chiến lược liên quan đến hoà bình hoặc chiến tranh ở châu Á – Thái Bình Dương, thậm chí là cả thế giới.
Bài báo viết gần đây trong khi đến thăm Inđônêxia, tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã yêu cầu ASEAN khẩn trương xây dựng bộ “quy tắc ứn xử” liên quan đến vấn đề Nam Hải để trình lên Hội nghị cấp cao Đông Á sẽ họp trong tháng 11. Trước đó không lâu, báo “Sankei” của Nhật Bản đăng bài viết so sánh Trung Quốc với nước Tần thời cổ đại, ví Việt Nam, Philíppin là những nước tuyên bố chủ quyền và các nước lớn ngoài khu vực can dự vào tranh chấp Nam Hải như Mỹ, Nhật Bản, Inđônêxia, Ôxtrâylia là “lục quốc” (6 nước). Báo này nói như khẳng định rằng “các thế hợp tung (liên kết theo chiều Bắc-Nam), liên hoành (liên kết theo chiều Đông-Tây) xung quanh vấn đề Nam Hải đang tăng lên nhanh”, khuyến khích Việt Nam và Philíppin cùng với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Ôxtrâylia nhanh chóng liên kết thành thế “hợp tung” để đối phó với chiến lược “liên hoành” của Trung Quốc trong vấn đề Nam Hải.
Xét tình hình hiện nay thì việc hoạch định kế hoạch, thúc đẩy “thuyết hợp tung” tuy mới chỉ là cách nói của báo chí và học giả chứ chưa trở thành chiến lược rõ ràng của những nước liên quan, nhưng âm mưu “hợp tung” xuất hiện tuyệt đối không phải là không có nguyên cớ. Theo cách nghĩ của những người chủ trương “thuyết hợp tung” thì lực lượng có thể “hợp tung để kiềm chế Trung Quốc” trong vấn đề Nam Hải chủ yếu gồm ba thành phần: Thứ nhất, những nước tuyên bố chủ quyền là “đội hợp tung gốc”, trong đó Việt Nam và Philíppin là chủ lực, vì không có những nước này tuyên bố chủ quyền ở Nam Hải sẽ không có vấn đề Nam Hải; Thứ hai, ba nước Nhật Bản, Ấn Độ và Ôxtrâylia phân bố thành ba hướng chiến lược lớn ở Đông, Tây, Nam là tuyến “hợp tung kéo dài”, việc những nước này tham gia có thể làm tăng thêm thực lực và thanh thế của các bên “hợp tung”; Cuối cùng là nước Mỹ, được những người theo “thuyết hợp tung” coi là “thống soái” tạo nên thế “hợp tung” đối với Trung Quốc ở Nam Hải.
Từ năm ngoái đến nay, ba lực lượng vốn được những người theo “thuyết hợp tung” tán thưởng đã luôn có hành động, hô ứng lẫn nhau, hậu quả chiến lược khách quan từ việc làm của họ quả thực ở mức độ nhất định là phù hợp với mong đợi của những người theo “thuyết hợp tung”.
Nếu âm mưu “hợp tung” nói trên được thực hiện, tạo nên cục diện Việt Nam, Philíppin và các nước ngoài khu vực là Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia “hợp tung” để kiềm chế Trung Quốc thì không những triển vọng giải quyết hoà bình vấn đề Nam Hải sẽ khó khăn hơn, mà khả năng làm cho tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương phát triển như cơn xoáy lốc sẽ tăng lên theo hướng căng thẳng, đối đầu, khiến cho rủi ro chiến tranh lớn thêm, trực tiếp đe doạ triển vọng trỗi dậy hoà bình của Trung Quốc.
Xét tình hình hiện nay thì bóng mây đen Nam Hải đã có cả bốn phía nguy cơ rủi ro xuất hiện cục diện các nước liên quan kiềm chế Trung Quốc đã hiển hiện nguy hiểm. Ở Hội nghị cấp cao Đông Á sắp diễn ra, việc các bên có động thái thế nào sẽ liên quan rất nhiều đến khả năng cuối cùng có hình thành cục diện “hợp tung” hay không. Trung Quốc không thể không xuất phát từ tầm cao đại chiến lược gấp rút hành động để mạnh mẽ phá thế bất lợi bằng chiến lược “liên hoành” trước âm mưu “hợp tung kiềm chế Trung Quốc” hình thành.
Thứ nhất, những người theo “thuyết hợp tung” tuy đẩy Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam, Philíppin lên phía trước, nhưng âm mưu “hợp tung” có hình thành được hay không là ở Mỹ nên vấn đề mấu chốt trong đó là Trung Quốc phải lấy “liên hoành” để phá “hợp tung”, phải tranh thủ Mỹ để Mỹ không tham gia “hợp tung”, khiến cho các phía hợp tung như “rắn không đầu”. Trước mắt Mỹ tuy bắt đầu thay đổi chính sách “không can thiệp” trong vấn đề Nam Hải, giương lên chiêu bài “tự do hàng hải”, “giải quyết theo luật quốc tế” nhưng Mỹ chưa tỏ rõ lập trường dứt khoát đối với đòi hỏi chủ quyền của bất cứ bên tranh chấp nào. Việc Mỹ “can thiệp” chủ yếu là tìm kiếm chỗ dựa để “trở lại châu Á”, đương nhiên cũng có tính toán theo ý đồ “kìm giữ” Trung Quốc trỗi dậy, nhưng mặt khác trong khi “kìm giữ” Trung Quốc, Mỹ cũng đồng thời muốn tìm kiếm hợp tác với Trung Quốc trong các lĩnh vực chiến lược toàn cầu như cân bằng kinh tế thương mại, tài chính, ổn định quốc tế v.v… từ đó sẽ không nhẹ dạ liều lĩnh được ăn cả ngã về không.
Thứ hai, tiếp tục làm tốt công tác với các nước tuyên bố chủ quyền, đặc biệt là Việt Nam và Philíppin để có thể chữa bệnh từ gốc thành công. Việt Nam và Philíppin tuy mục tiêu cuối cùng là đòi hỏi, phân chia chủ quyền Nam Hải nhưng các nước này không thể không tính đến hiện thực không đối xứng về thực lực và “là láng giềng không thể thay đổi” với Trung Quốc, dù nhất thời họ dựa vào thế lực bên ngoài để có được ưu thế tạm thời nào đó nhưng chắc chắn không thể lâu bền. Họ vừa phải dựa vào ngoại lực nhưng cũng không cam tâm để bị âm mưu “hợp tung” trói buộc. Trước mắt nếu đặt bài ngửa là không phù hợp với lợi ích căn bản của họ mà chỉ cần không đặt bài thì cục diện “gác lại tranh chấp” sẽ có thể tiếp tục duy trì. Năm nay Tổng thống Philíppin đi thăm Trung Quốc và lãnh đạo cấp cao Trung Quốc-Việt Nam gặp nhau đã dọn đường rất tốt cho việc phá bỏ mưu đồ “hợp tung”.
Cuối cùng các nước ở “tuyến hợp tung kéo dài” như Ấn Độ và Ôxtrâylia lấy danh nghĩa “hợp tung” hòng dựa vào các nước ASEAN và thế lực của Mỹ để kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy, từ đó được lợi ích thì đối với các nước này cũng c n phân biệt để đối xử cho đúng. Sở dĩ Ấn Độ một mình một ngựa trong ý đồ “hợp tung”, hơn nữa không hề che giấu, chủ yếu là để kiềm chế Trung Quốc hoạt động ở Ấn Độ Dương và vùng Casơmia bên phía Pakixtan; Nhật Bản ngoài việc muốn kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy nước này còn muốn tranh thủ đồng minh làm ô dù trong tranh chấp chủ quyền ở biển Hoa Đông với Trung Quốc và cô lập Trung Quốc. Còn ý đồ của Ôxtrâylia là để thể hiện sự có mặt của họ ở Thái Bình Dương chứ không cam chịu lặng im. Nếu Mỹ không chắc chắn tham gia “hợp tung”, không đảm đương vai trò “thống soái” trong mưu đồ hợp tung, nếu có thể dập tắt được bệnh từ gốc khiến Việt Nam và Philíppin hiểu rõ rằng lấy “hợp tung” đối đầu với Trung Quốc sẽ lợi bất cập hại thì các nước ở “tuyến kéo dài” sẽ rơi vào thế không còn chỗ dựa. Như vậy âm mưu “hợp tung” cũng s ẽ không đánh mà tự tan.
***
(Đài RFA 19/10)
Nhiều diễn biến sôi động tại Đông Nam Á đã tiếp nối những chuyến công du như thoi đưa của các nhà lãnh đạo Việt Nam sang Ấn Độ và Trung Quốc. Đài Loan nhảy vào cuộc, với ý định gì?
Đối đầu, lên gân
Trước hết phải nói đến cuộc đối đầu nhẹ nhàng trên biển vừa xảy ra giữa tàu chiến Philíppin và tàu đánh cá của Trung Quốc. Vụ việc là tàu đánh cá của Trung Quốc đang kéo theo 25 chiếc xuồng nhỏ đi trong Bãi Cỏ Rong, vùng đảo san hô do Philíppin chiếm giữ thì gặp tàu tuần tra của Philíppin tiến tới, tàu này bèn cắt dây chạy đi, bỏ lại những xuồng nhỏ.
Tàu tuần tra của hải quân Philíppin kéo cả đám xuồng về bến, và nói sẽ giao trả hết. Philíppin còn ngỏ lời xin lỗi qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Manila vì tàu Philíppin đã chạm phải một chiếc xuồng. Tuy nhiên Manila cũng cho biết tàu Trung Quốc có đánh cá lậu trong lãnh hải của Philíppin.
Đó là một hành động thăm dò của Trung Quốc, có thể coi như để “nắn gân” Manila sau khi diễn ra vụ tập trận đổ bộ của Mỹ với Philíppin và sau khi Đài Loan nói sẽ trang bị tên lửa phòng không Tiền Chiến 1 cho đơn vị đóng trên đảo Ba Bình. Đó là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa bị Đài Loan chiếm giữ năm 1946. Đài Loan rút về, rồi lại tái chiếm đảo này ngày 20/5/1956.
Và trong vụ “nắn gân” vừa qua, Philíppin đã “lên gân” để tỏ ra cương quyết, trong khi tàu Trung Quốc được lệnh bỏ đi. Nhưng lập tức Manila tỏ thái độ mềm mỏng để tránh găy căng thẳng, có nghĩa là Philíppin chỉ nhằm bảo vệ lãnh hải quanh Bãi Cỏ Rong.
Muốn gì?
Đài Loan hành động khá bất ngờ khi tỏ lập trường mà mới nhìn qua tưởng chừng như đứng về phía Trung Quốc để chống lại Việt Nam và Philíppin trong vấn đề chủ quyền ở Trường Sa.
Tuy nhiên, xét kỹ ở bên trong thì ngược lại, Đài Loan dường như chỉ muốn xác định chủ quyền của họ trên đảo Ba Bình của Trường Sa. Đài Loan bố trí gần 150 thuỷ quân lục chiến trên đảo này, cách đây mấy tháng còn có phái đoàn ra viếng thăm. Ba Bình nằm trong nhóm đảo Ba Bình-Nam Yết ở phần tư Đông-Bắc của quần đảo Trường Sa, rất gần đảo Nam Yết là căn cứ phòng thủ Trường Sa chính yếu của Việt Nam, nhưng Ba Bình cách xa Bãi Cỏ Rong của Philíppin.
Người đòi đưa tên lửa phòng không Tiền Chiến I ra Trường Sa là đại biểu quốc hội họ Lâm của Đài Loan, được Bộ Quốc Phòng ủng hộ ý kiến. Ông Lâm nói rằng Việt Nam có cả nghìn quân ở Trường Sa, được các máy bay chiến đấu phản lực Sukhoi 27 và 30 yểm trợ, trong khi quân Đài Loan ở Ba Bình chỉ có đại bác phòng không 20 ly mà thôi.
Nhắm vào ai?
Những lời tuyên bố đó mới nghe thì như muốn kèn cựa với Việt Nam nhưng thực ra lại nhắm vào Philíppin. Lý do là vì Philíppin là nước có lập trường cương quyết nhất trong vấn đề chủ quyền của họ trên Bãi Cỏ Rong, được chứng tỏ qua vụ va chạm vừa rồi, và qua nhiều diễn tiến sau khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đi Trung Quốc, cả từ trước cuối tháng 8 khi Tổng thống Philíppin Aquino thăm Trung Quốc.
Trong chuyến thăm đó, Bắc Kinh đã không làm cho Manila đồng thuận được về biện pháp song phương, mà Philíppin chỉ tuyên bố chung chung và ký kết hướng về kinh tế, thương mại.
Thông báo chung sau hội nghị thượng đỉnh Philíppin-Trung Quốc hôm 2/9 cũng chỉ cam kết sử dụng đường lối hoà bình và tôn trọng, áp dụng “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” do Bắc Kinh và khối ASEAN ký kết. Văn bản này từng nổi tiếng là một văn kiện “không có răng”, tức là không có hiệu lực ràng buộc chút nào. Rồi thì Philíppin lại phản đối thông báo chung của Việt Nam-Trung Quốc về việc giải quyết tranh chấp Biển Đông. Manila cho rằng hai nước Việt-Trung đã đồng ý giải quyết song phương.
Thêm vào đó, sự kiện gần đây nhất khiến Đài Loan đòi bố trí tên lửa ở Ba Bình là cuộc tập trận chung giữa Mỹ với Philíppin. Tuy cuộc tập trận diễn ra sau khi Đài Loan nói đến chuyện tên lửa, nhưng tin tức liên quan đã được biết đến từ lâu. Rồi cuộc tập trận này đã từng dự định thao dượt đổ bộ lên Bãi Cỏ Rong, nhưng vì tình hình “tế nhị” nên phải thay đổi để đổ bộ lên bờ Tây đảo Palawan, trong khi vùng sôi động vì phiến quân Abu Sayyaf lại nằm trên đảo Sulu ở vùng biển phía Đông Palawan.
Như vậy, có thể nói Đài Loan không hẳn chống lại riêng Việt Nam hay Philíppin, mà ý chính là muốn xác định chủ quyền của họ trên đảo Ba Bình giữa lúc ba nước liên quan chính yếu đang sôi nổi vì vấn đề chủ quyền ở Trường Sa. Làm như thế là để đòi quyền khai thác chung sau này.
Níu đằng Tây, xoa dịu đằng Đông
Việt Nam đã rất khôn ngoan khi ký kết giải quyết bất đồng hoà bình với Trung Quốc ngay giữa lúc cùng ký kết để cho Ấn Độ thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông. Trung Quốc từng phản đối hợp đồng này, nhưng đã cam kết hoà bình với Việt Nam trong khi Việt Nam đang ký kết với Niu Đêli để Ấn Độ hoạt động trên Biển Đông.
Làm như vậy khiến Trung Quốc khó lòng có hành động thô bạo đối với công cuộc hợp tác Việt Nam-Ấn Độ ở Biển Đông sau này, tuy rằng không ai đảm bảo được hành vi của nước lớn bá quyền này.
Cũng nên lưu ý đến sự mở lối kín đáo cho giải pháp đa phương trong nguyên tắc thứ ba trong sáu nguyên tắc mà Việt Nam ký kết với Trung Quốc. Điều thứ ba này có câu là “nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp”. Điều khoản này dường như mở lối cho những vòng đàm phán đa phương cục bộ giữa Trung Quốc và một vài nước ASEAN liên quan, mà không có Nhật Bản và Mỹ hay Ấn Độ, Ôxtrâylia ở đây.
Liệu đa phương cục bộ có mở rộng thêm nữa được không? Điều đó còn tuỳ thuộc tình hình kinh tế-chính trị-quân sự-xã hội của quốc tế và của nội bộ của các đấu thủ đặt cược trong canh bài lớn ấy./.
No comments:
Post a Comment
Ghi một nhận xét ( bỏ dấu =)
- Tô đậm: "câu muốn tô đậm"
- Chữ nghiêng: " câu muốn in nghiêng "
- Chèn link: "text"
- Chèn hình: "[img]link hình muốn chèn[/img]"
- Chèn video: "[youtube]link video cần chèn[/youtube]"