Hoa đào biên viễn
Theo Một Thế Giới: Bài 1: Biên giới, hồi ức 35 năm
Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng bỗng dưng
đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng Pha Long, Lào Cai,
thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng,
Lạng Sơn, những cây đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách
tùm lum của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.
Một số phận
Trong
ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao Bằng, bà Nguyễn Thị
Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người 35 năm trước bất
đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.
Câu
chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ nữ nhỏ nhắn run
lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh đã lấy đi
của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi
hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một
nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Sáng 17.2.1979, trời rất mù
và lạnh. Từ thị trấn Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy
loạn khi tiếng pháo của lính Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi.
Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ khốn khổ đang mang thai đến
tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để chạy.
“Cô chạy vào núi đá Mỏ
Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám
người chạy loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán
khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng thấy lính Trung
Quốc”.
Trong
gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau đẻ trong cái đói, trong
cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo
mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ
đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc nhúc, vây
hãm khắp nơi.
Những
con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ giọt gianh trong một tấm
nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban đêm mấy người đàn
ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng
trại.
Đến
hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường cuối cùng, hòa với vốc
nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá
nhưng 3 hôm sau thì qua đời.
Bia thảm sát tại Tổng Chúp, Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng. Bà Hậu, một người dân Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn bảo rằng: Bà không thể quên những ngày tháng 2 năm ấy |
“Cô sinh cháu và gói trong một
chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn
khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn
mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng chừng đã không còn có thể đau khổ được
nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc
vứt nó ở một đâu đó”.
Nhưng
bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người chồng nửa đêm đi kiếm
ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6
và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết
ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.
Còn
bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi thảm của đứa con
đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc
khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.
35
năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi hình ảnh đứa con đầu
lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không
có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…
Không
chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như
vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ gì cao quá 1m. Bách
hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một
viên gạch lành.
Chị
Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng, năm đó 9 tuổi,
đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng phun lửa đốt
cháy trên mặt đất. Khắp nơi.
Ông
Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ lại: Đến ngày
20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3. Không một chiếc
xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy nghi
ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật
đổ từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì
không lấy được thì phá hết.
Khi giặc đến nhà
Ngày
17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự chính quy lên tới
60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài 1.200 km biên giới 6
tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng điểm đánh phá của
quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.
Theo
nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí
China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung Quốc phụ thuộc
phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng
hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực
đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi
chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn
công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở
mạn phía đông và nam.
Trong
một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy dịch ra tiếng Việt
ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác
nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể “vũ
khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là
năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp
mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.
Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá như vậy?
Trang mạng quân sự milchina.com của
Trung Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh
Trung Quốc từng tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải
thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, hủy hoại
quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau hai
ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán chính
thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây
ngọn cỏ”.
Cho
đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu
hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước
mắt. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tỉnh
ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ đội về một số xã để củng
cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ
trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã bấy
giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ yếu
là làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì
căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã
nổ ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có
quân”.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng |
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng
Trần Hùng, thời điểm 1979 đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa
phương còn nhớ như in là khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào
đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3 phòng không của trung đoàn 567 phải thay
đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn xe tăng bằng đạn xuyên.
Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.
“Chúng
tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận địa”, ông Hùng nói, “về sau,
khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để
rút”.
Theo
Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được Cao Bằng sau
khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ. Nhưng
sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung
Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe tăng và pháo binh yểm trợ?
“Dân
Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh, gặp đâu cũng đánh,
ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp nơi”- ông Vương Dương
Tường nói.
Ở
Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu binh vẫn tự tập
hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh được bằng cái
đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như
vậy.
Người
Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại. Cho đến cuối cuộc chiến
tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản
bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi
giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tháng
2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập năm xưa, một siêu thị
mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.
Còn
người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện, bỗng bất ngờ hỏi
lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không
đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô phải
chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng
chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già
yếu không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".
Con
gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói sẽ đưa chúng tôi
vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người biết đến những gì
xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã
hoang vắng lắm rồi anh ạ”.
Đào Tuấn
Ảnh bìa:
Một góc pháo đài Đồng Đăng
No comments:
Post a Comment
Ghi một nhận xét ( bỏ dấu =)
- Tô đậm: "câu muốn tô đậm"
- Chữ nghiêng: " câu muốn in nghiêng "
- Chèn link: "text"
- Chèn hình: "[img]link hình muốn chèn[/img]"
- Chèn video: "[youtube]link video cần chèn[/youtube]"