Friday, 14 February 2014
Wednesday, 12 February 2014
704. Bài 3: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ ( Tư liệu chiến tranh Biên Giới 1979)
Nguồn: Một Thế Giới: Bài 3: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ
Đăng Bởi Một Thế Giới -
Từ 35 năm nay, vào dịp tháng 2 mỗi năm, Đại tá Triệu Quang Điện,
trưởng Phòng Cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn đều đến đền Mẫu để
thắp hương cho đồng đội của mình.
35
năm, thời gian chưa đủ để ông quên đi bữa cháo nếp cuối cùng. 35 năm,
ông vẫn nhớ như in hình ảnh của những người đồng đội trong tổ tam tam:
Những Trần Văn Thái. Những Vi Văn Cao.
Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc
Năm đó, binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4 tháng, cũng vừa qua khóa huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào đúng buổi chiều ngày 16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những bãi mìn biên giới.
5h sáng, khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông cùng hai người đồng đội trong tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã đặt trên bếp để vội vã xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài Đồng Đăng.
Tới 7h, sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã kéo sang khắp nơi. Ba người kê súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt 1 giờ đồng hồ.
“Hồi huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông Điện nhớ lại - nhưng hôm đó, lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần bắn giỏi cũng có thể trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì Điện đã tiêu diệt tới 30 lính Trung Quốc.
Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên. Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.
Trong một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay đạn thì chỉ nghe “bầm”. Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố pháo đen xì. Không còn chút vết tích.
Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi. Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.
Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.
Đến tối 18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân trong hang ra. Và chỉ trong một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa dân, ra ra vào vào 3 lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.
Chúng tôi theo lối mòn trèo lên pháo đài Đồng Đăng, nơi bị đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến biên giới.
Vào ngày 17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công ác liệt nơi này.
Trong cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ: Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.
Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.
Hoặc như ở chính cái nơi mà lính Trung Quốc xả súng vào chiếc xe cứu thương 12A 04-35 của bệnh viện Lạng Sơn đi Đồng Đăng cứu nhân dân bị thương, giết chết cả người lái xe, cả BS Nguyễn Thu Thủy, y tá Trịnh Thị Sâm, giờ một con đường mới đã được mở ra dập dìu xe cộ, hàng hóa thông thương qua cửa khẩu Hữu Nghị.
Đến Tổng Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên trưởng trại giống Đức Chính, người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát Tổng Chúp giờ cũng không còn.
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long
Nhưng cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng lên. Ngay bên tay phải đồn biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào Cai, có những dòng chữ mới, được in trên bia đá:
Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.
Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây.
Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên đồn Pha Long cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng vào điểm đối diện đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng hàng, từng hàng tên tuổi của 37 liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong đá xám.
Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang còn trẻ măng đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi lê cuối cùng để bảo vệ tổ quốc.
Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn cuối cùng, một người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu phương. Và cũng chỉ vài chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt.
Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:
Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.
…
Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..
Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc đào ở Pha Long đơm hoa.
Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải Chồ, nơi một đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi Nguyên Khiết đã tay bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.
Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc
Năm đó, binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4 tháng, cũng vừa qua khóa huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào đúng buổi chiều ngày 16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những bãi mìn biên giới.
5h sáng, khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông cùng hai người đồng đội trong tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã đặt trên bếp để vội vã xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài Đồng Đăng.
Tới 7h, sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã kéo sang khắp nơi. Ba người kê súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt 1 giờ đồng hồ.
“Hồi huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông Điện nhớ lại - nhưng hôm đó, lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần bắn giỏi cũng có thể trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì Điện đã tiêu diệt tới 30 lính Trung Quốc.
Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên. Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.
Trong một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay đạn thì chỉ nghe “bầm”. Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố pháo đen xì. Không còn chút vết tích.
Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi. Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.
Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.
Đến tối 18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân trong hang ra. Và chỉ trong một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa dân, ra ra vào vào 3 lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.
Khẩu trung liên của ông giờ đang được trưng bày tại Viện Bảo tàng công an nhân dân.
Bia trấn ải ở Pha Long, Mường Khương, Lào Cai
|
Ít năm sau đó, khi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một buổi lễ,
ông thậm chí không trả lời được vì sao chỉ trong 1 đêm, với quãng đường
17km, một người chỉ nặng chưa tới 49kg đã 3 lần bò vào cõng đồng đội bị
thương ra nơi an toàn.
Vào ngày 17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công ác liệt nơi này.
Trong cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ: Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.
Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.
Hoặc như ở chính cái nơi mà lính Trung Quốc xả súng vào chiếc xe cứu thương 12A 04-35 của bệnh viện Lạng Sơn đi Đồng Đăng cứu nhân dân bị thương, giết chết cả người lái xe, cả BS Nguyễn Thu Thủy, y tá Trịnh Thị Sâm, giờ một con đường mới đã được mở ra dập dìu xe cộ, hàng hóa thông thương qua cửa khẩu Hữu Nghị.
Ở Tổng Chúp có tấm bia ghi bại vụ thảm sát này.
Tấm bia giờ vẫn còn sau 35 năm, dù chiếc giếng cạn, nơi năm xưa chứa
đầy xác phụ nữ, trẻ em bị hành quyết bằng rìu bổ củi giờ đã lấp đầy cây
lá.
Quá khứ
không dễ quên. Nhất là khi đó là những gì đau thương nhất. Cho dù theo
thời gian, những nhân chứng chiến tranh giờ đã lần lượt ra đi. Ông Hoàng
A Tỉn, nhân chứng thảm sát trong sân Bách hóa tổng hợp Bát Xát đã mất 2
năm trước.Đến Tổng Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên trưởng trại giống Đức Chính, người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát Tổng Chúp giờ cũng không còn.
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long
Nhưng cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng lên. Ngay bên tay phải đồn biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào Cai, có những dòng chữ mới, được in trên bia đá:
Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.
Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây.
Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên đồn Pha Long cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng vào điểm đối diện đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng hàng, từng hàng tên tuổi của 37 liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong đá xám.
Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang còn trẻ măng đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi lê cuối cùng để bảo vệ tổ quốc.
Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn cuối cùng, một người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu phương. Và cũng chỉ vài chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt.
Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:
Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.
…
Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..
Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc đào ở Pha Long đơm hoa.
Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải Chồ, nơi một đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi Nguyên Khiết đã tay bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.
Có lẽ, chính những người lính biên
phòng, chính những nhà báo liệt sĩ, chính nhân dân anh hùng, những người
đã ngã xuống từ cả ngàn năm nay, những người đã hy sinh anh dũng trong
cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc năm 1979 mới là những
tấm “bia trấn ải” thiêng liêng nhất mà mỗi người làm báo chúng tôi cần
phải nhắc lại để thế hệ con cháu còn có được cảm xúc thiêng liêng, tự
hào khi nhắc đến hai chữ “Tổ Quốc”.
Đào Tuấn
703. Bài 2: “Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau“ ( Tư liệu chiến tranh biên giới 1979).
Nguồn: Một Thế Giới
Bài 2: “Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau“
Đăng Bởi Một Thế Giới -
“Ai cũng chỉ nói chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định
là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế
thôi. Chứ anh em đồng chí, ai nghĩ là sẽ đánh nhau”- 35 năm sau, nguyên
Bí thư tỉnh Cao Bằng vẫn còn khắc khoải câu chuyện xảy ra năm 1979.
Trận tập kích bất ngờ
Ở Bát Xát, Lào Cai, khi pháo Trung
Quốc bắt đầu bắn sang từ phía bên kia biên giới, ông Nguyễn Văn Tuyến,
đại đội trưởng tự vệ Đoàn địa chất 305 (Đoàn 5) đang ở Bản Vược, ngay
trong tầm súng trường lính Trung Quốc.
“Chúng tôi vẫn pha trà uống. Chiến sự
vẫn liên miên từ trước đó, đêm nào cũng có tiếng súng, cho nên không ai
ngờ Trung Quốc đánh lớn”- ông nói.
Chỉ trước khi cuộc tấn công diễn ra 48 tiếng, cả dân lẫn lính Trung Quốc vẫn “sang bên này xem chiếu bóng bình thường".
Ông Tuyến từng là lính trong chiến
tranh với Mỹ, sau chiến tranh làm Phó Chủ tịch HĐND huyện Bát Xát, nhớ
lại: "Khi pháo Trung Quốc chuyển làn, ông mới giật mình hô anh em vì cảm
giác rằng bộ binh Trung Quốc sẽ sang. Mấy người hoảng hốt chạy ra đến
đến ngã ba Bản Vược thì khắp nơi đã tràn ngập màu áo lính đang vận động
từ phía trong ra điểm chốt của công an vũ trang. Chúng tôi tưởng bộ đội mình đã lên ngay thành thử súng cầm trong tay mà không bắn”.
Từ
trong hậu phương, lính Trung Quốc tiến đánh từ phía sau đồn công an vũ
trang và chốt tự vệ địa phương. Hỏa lực từ bên kia biên giới bắn sang
như mưa rào. Đơn vị ông Tuyến cơ động ra đến chốt Cây 2 thì bị một khẩu
đại liên chặn lại. Bấy giờ, anh em vẫn có người giơ súng, giơ cờ vẫy ra
hiệu vì vẫn tưởng bộ đội mình bắn nhầm.
Chỉ một lát sau đó, từ khu vực bản
Xèo, lính công binh Trung Quốc lao cầu phao và sau đó xe tăng Trung Quốc
tiến sang. “Họ đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Cây cầu phao thả ra trôi theo
dòng nước là áp khít sang bờ bên này”, lời ông Tuyến.
Tự vệ bản Xèo hy sinh vô số kể. “Chúng tôi chỉ được trang bị trung liên và súng K63. Không có vũ khí chống tăng”- ông Tuyến nói.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội
Cựu Chiến binh Bát Xát thời điểm tháng 2.1979 đang là lính sư đoàn 316,
một trong hai sư đoàn chủ lực duy nhất hiện diện ở biên giới phía Bắc.
Sáng đó, đang ở Than Uyên, đơn vị ông
có lệnh báo động. Ai cũng tưởng chỉ báo động hành quân dã ngoại, thành
thử “có người chỉ mang theo một quả đạn, có người trút lại tượng gạo, và
có người, chỉ mang độc một bộ quần áo trên người”.
Đơn vị ông Trường hành quân lên đến
Sapa thì những người lính mới biết chiến tranh đã xảy ra, và sau đó chạm
địch ngay tại đèo Ô Quy Hồ. 218 đồng đội của ông đã hy sinh trong trận
đánh đó.
Bát Xát là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” với những địa danh anh hùng và đau thương: A Mú Sung, Y tý.
Những người lính biên phòng A Mú Sung trong ngày 17 tháng 2 năm ấy, đã đánh đến viên đạn cuối cùng và hy sinh oanh liệt.
Một góc pháo đài Đồng Đăng
|
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần
Hùng nhớ lại, trưa ngày 17, khi một người dân chạy đến đơn vị báo tin xe
tăng Trung Quốc đã vào đến Nước Hai, Hòa An, thủ trưởng của ông còn
lệnh cho lính "trói nó lại” vì cho rằng người này phao tin đồn nhảm.
Vì sao quân dân ta lại bị bất ngờ trước một cuộc tấn công toàn tuyến với quy mô 32 sư đoàn?
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương
Tường, nhớ lại ở Cao Bằng hôm ấy, quân khu còn đưa các chỉ huy quân sự
tỉnh về họp. Không ai biết Trung Quốc đánh mình. Ngay cả khi tiếng súng
đã nổ vang từ hướng Hà Quảng, Thông Nông, trưởng ty Thủy lợi băn khoăn
nói tiếng súng nhiều lắm, không biết súng ta hay súng địch. Một lãnh đạo
Cao Bằng khi đó nói anh em cứ yên trí. Đó là súng mình.
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương Tường, |
Ông Tường thừa nhận: "Cơ bản nhất là bấy giờ không ai tin anh em đồng chí lại đánh nhau", ông Tường nói.
Cao Bằng bấy giờ vừa tách tỉnh. Đến 1
giờ đêm, pháo Trung Quốc bắn phá dồn dập. Sáng ngày 17.2, lính Trung
Quốc đã đến chân đèo Minh Tâm. 2 tiếng sau, xe tăng chúng đã vào đến Cao
Bình, rồi vào đến Nà Tàu. Pháo binh Trung Quốc dồn dập nã xuống Nà Tản.
Ngày 18.2, lính Trung Quốc đã vào đến Hòa An, Cao Bình. Đến ngày 19, khắp nơi đã bị đốt phá giết chóc.
“Ai cũng nghĩ là chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là
giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế
thôi, ai nghĩ là sẽ
đánh nhau” - ông Tường nói, và theo ông, 35 năm sau
vẫn chưa hiểu nguyên nhân câu chuyện đã xảy ra.
Cho đến năm 1992, khi các cơ quan của Bát Xát, Lào Cai từ Mường Vi trở lại Bản Xèo thì “vẫn chỉ có cỏ may và đất đỏ”.
Chúng tôi trở lại Đồng Đăng, Lạng Sơn vào đúng ngày lễ Đền Mẫu, lễ lớn nhất Lạng Sơn, nằm ngay dưới chân pháo đài Đồng Đăng.
Từ 35 năm nay, mỗi dịp tháng hai, đại tá Triệu Quang Điện, Trưởng
phòng cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn vẫn đến đây thắp hương
tưởng nhớ những người đồng đội của mình.
Ông Điện được phong Anh hùng lực lượng
vũ trang sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, và sau 35 năm, ông vẫn
nhớ như in những cái tên Trần Văn Thái, Vi Văn Cao, những người đồng đội
trong tổ tam tam và bữa cháo cơm nếp cuối cùng đêm 16.12.
Đào Tuấn
702. Bài 1: Biên giới 1979, hồi ức 35 năm ( tư liệu)
Hoa đào biên viễn
Theo Một Thế Giới: Bài 1: Biên giới, hồi ức 35 năm
Đăng Bởi Một Thế Giới -
Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng bỗng dưng
đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng Pha Long, Lào Cai,
thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng,
Lạng Sơn, những cây đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách
tùm lum của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.
Một số phận
Trong
ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao Bằng, bà Nguyễn Thị
Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người 35 năm trước bất
đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.
Câu
chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ nữ nhỏ nhắn run
lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh đã lấy đi
của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi
hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một
nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Sáng 17.2.1979, trời rất mù
và lạnh. Từ thị trấn Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy
loạn khi tiếng pháo của lính Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi.
Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ khốn khổ đang mang thai đến
tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để chạy.
“Cô chạy vào núi đá Mỏ
Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám
người chạy loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán
khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng thấy lính Trung
Quốc”.
Trong
gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau đẻ trong cái đói, trong
cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo
mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ
đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc nhúc, vây
hãm khắp nơi.
Những
con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ giọt gianh trong một tấm
nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban đêm mấy người đàn
ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng
trại.
Đến
hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường cuối cùng, hòa với vốc
nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá
nhưng 3 hôm sau thì qua đời.
Bia thảm sát tại Tổng Chúp, Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng. Bà Hậu, một người dân Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn bảo rằng: Bà không thể quên những ngày tháng 2 năm ấy |
“Cô sinh cháu và gói trong một
chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn
khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn
mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng chừng đã không còn có thể đau khổ được
nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc
vứt nó ở một đâu đó”.
Nhưng
bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người chồng nửa đêm đi kiếm
ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6
và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết
ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.
Còn
bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi thảm của đứa con
đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc
khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.
35
năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi hình ảnh đứa con đầu
lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không
có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…
Không
chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như
vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ gì cao quá 1m. Bách
hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một
viên gạch lành.
Chị
Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng, năm đó 9 tuổi,
đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng phun lửa đốt
cháy trên mặt đất. Khắp nơi.
Ông
Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ lại: Đến ngày
20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3. Không một chiếc
xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy nghi
ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật
đổ từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì
không lấy được thì phá hết.
Khi giặc đến nhà
Ngày
17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự chính quy lên tới
60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài 1.200 km biên giới 6
tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng điểm đánh phá của
quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.
Theo
nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí
China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung Quốc phụ thuộc
phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng
hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực
đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi
chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn
công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở
mạn phía đông và nam.
Trong
một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy dịch ra tiếng Việt
ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác
nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể “vũ
khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là
năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp
mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.
Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá như vậy?
Trang mạng quân sự milchina.com của
Trung Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh
Trung Quốc từng tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải
thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, hủy hoại
quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau hai
ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán chính
thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây
ngọn cỏ”.
Cho
đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu
hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước
mắt. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tỉnh
ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ đội về một số xã để củng
cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ
trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã bấy
giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ yếu
là làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì
căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã
nổ ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có
quân”.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng |
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng
Trần Hùng, thời điểm 1979 đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa
phương còn nhớ như in là khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào
đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3 phòng không của trung đoàn 567 phải thay
đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn xe tăng bằng đạn xuyên.
Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.
“Chúng
tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận địa”, ông Hùng nói, “về sau,
khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để
rút”.
Theo
Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được Cao Bằng sau
khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ. Nhưng
sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung
Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe tăng và pháo binh yểm trợ?
“Dân
Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh, gặp đâu cũng đánh,
ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp nơi”- ông Vương Dương
Tường nói.
Ở
Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu binh vẫn tự tập
hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh được bằng cái
đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như
vậy.
Người
Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại. Cho đến cuối cuộc chiến
tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản
bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi
giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tháng
2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập năm xưa, một siêu thị
mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.
Còn
người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện, bỗng bất ngờ hỏi
lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không
đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô phải
chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng
chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già
yếu không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".
Con
gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói sẽ đưa chúng tôi
vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người biết đến những gì
xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã
hoang vắng lắm rồi anh ạ”.
Đào Tuấn
Ảnh bìa:
Một góc pháo đài Đồng Đăng
Subscribe to:
Posts (Atom)
679.0 Hướng dẫn cài đặt AD RMS server ( Active Directory Rights Management Services) có trong Windows Server 2012.
Nguồn: https://mdungblog.wordpress.com/2018/06/21/simple-guide-huong-dan-cai-dat-ad-rms-windows-server-2012-r2/ Hôm nay mình xin giới thiệ...
-
Download Mdaemon 13.5.1 tại đây. Dowload Mdaemon 13.5.1 cracked tại đây . Hướng dẫn. 1) Stopping mdaemon 2) Copy Mdaemon.exe vap thu...
-
Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu Cuộc sống đem lại cho bạn nhiều cảm xúc : Buồn, Vui, Hạnh phúc, Yêu thương, ...