Nguồn's : Trần Đức Nguyên
Ai nuôi Nhà nước?
Thử làm một cuộc thăm dò ở nước ta xem bao nhiêu phần trăm công dân biết rằng Nhà nước do mình nuôi bằng thuế?...
Trong một dịp đi họp ở Mỹ cách đây trên 10 năm, tôi đến một cửa hàng
mua đôi giày da. Sau khi chọn và đi thử một đôi có giá 96 USD, tôi trả
tiền bằng tờ bạc 100 USD. Người bán hàng nói còn thiếu, tôi chỉ vào biển
ghi giá thì được giải thích là giá này còn phải cộng thêm 10% thuế mà
người tiêu dùng đóng cho Nhà nước. Sang Canada, tôi cũng thấy cách tính
thuế tương tự đối với hàng hóa và dịch vụ.
Tôi nêu vấn đề với các
chuyên gia kinh tế sở tại: Ở Việt Nam, thuế hàng hóa được thu ngay khi
hàng xuất xưởng và được gọi là thuế gián thu (thu gián tiếp) vì thu từ
doanh nghiệp sản xuất hàng nhưng thực chất tiền thuế ấy đánh vào người
tiêu dùng. Thay vì thu rải rác khi có người mua hàng, nay thu gọn một
nơi, một lúc khi hàng xuất xưởng chẳng tiện hơn sao?
Người đối
thoại với tôi giải thích về cách thu thuế của họ như sau: Trước hết đây
là thuế mà người tiêu dùng đóng nên khi nào hàng được tiêu thụ thì mới
tính thuế; nếu thu trước từ người sản xuất mà ở khâu bán lẻ, hàng không
bán được thì sao? Lẽ thứ hai, chúng tôi muốn người dân biết rõ và luôn
luôn nhớ là mình đóng thuế nuôi Nhà nước; thuế thu nhập cá nhân cũng
nhắc nhở điều đó, nhưng mỗi tháng hoặc mỗi quý chỉ một lần nộp, còn thuế
hàng hóa, dịch vụ thì hầu như ngày nào dân cũng đóng. Chính vì thế nên
giá hàng khi niêm yết là giá chưa có thuế hàng hóa để người mua tự tính
thêm.
Đối với thuế mà người tiêu dùng phải nộp, cách thu trực
tiếp hay thu gián tiếp hợp lý và có lợi hơn, tôi không phải chuyên gia
về thuế nên không dám so sánh, song thấy rất ấn tượng về cái lẽ thứ hai
mà họ giải thích. Nguồn thu của ngân sách nhà nước là do dân đóng góp
dưới nhiều hình thức; viện trợ không hoàn lại của nước ngoài chỉ chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ; thu từ tài nguyên cũng là nguồn thu do tài sản thuộc
sở hữu toàn dân mang lại; bội chi ngân sách được bù đắp bằng các khoản
vay trong và ngoài nước, rút cuộc cũng do dân trả nợ trong các năm sau. Ở
nước ta, kinh phí hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị-xã hội
cũng dựa vào ngân sách nhà nước toàn bộ hoặc phần lớn, nên có thể nói
dân ta nuôi cả hệ thống chính trị.
Cách thu thuế như ở Mỹ và
Canada nhằm thường xuyên nhắc nhở người dân hiểu và nhớ rằng mình nuôi
Nhà nước là một biện pháp thiết thực tôn trọng người dân, cổ vũ dân chủ.
Người dân ý thức rõ là bộ máy nhà nước do dân nuôi nên bộ máy này phải
phục vụ dân; người nuôi bộ máy có quyền đòi hỏi các cơ quan công quyền
phải thực hiện đúng quy chế công khai, minh bạch và được dân giám sát.
Thử làm một cuộc thăm dò ở nước ta xem bao nhiêu phần trăm công dân
biết rằng Nhà nước do mình nuôi bằng thuế? Có thể nói chắc là tỷ lệ
không cao. Chúng ta thường thấy các khẩu hiệu treo trên đường phố hoặc
viết chữ to ở bảng đầu làng, đầu ngõ tuyên truyền việc đóng thuế, nhưng
hầu như chỉ nói về nghĩa vụ (có khi thêm vinh dự) của người dân khi nộp
thuế; hiếm khi thấy khẩu hiệu giúp cho dân hiểu rõ đóng thuế là nuôi Nhà
nước. Gần đây, một số cửa hàng lớn, khách sạn, nhà hàng, công ty dịch
vụ... ghi rõ trong phiếu thu tiền phần giá hàng hóa, dịch vụ và phần
thuế mà người tiêu dùng phải nộp. Tuy nhiên đối với đông đảo nhân dân,
nhất là ở nông thôn, không mấy người biết rằng khi mua hàng (từ hàng
tiêu dùng đến máy móc, vật liệu... sản xuất trong nước và nhập khẩu),
người mua đã đóng thuế cho Nhà nước trong giá mua hàng.
Không chỉ
người dân thường mà không ít người trong bộ máy công quyền cũng không ý
thức được rằng mình được dân nuôi. Ở nước ta mỗi khi người dân có được
thành tựu, hoặc được được hưởng một lợi ích nào đó thì thường nói là ơn
Đảng, ơn Chính phủ.
Chúng ta biết rằng một chủ trương, chính
sách đúng của Đảng và Nhà nước được tổ chức thực hiện tốt thì đem lại
lợi ích cho dân. Muốn hoạch định đúng chủ trương, chính sách, phải dựa
vào trí tuệ, kinh nghiệm và ý kiến đóng góp của dân. Trong mọi lĩnh vực
hoạt động, nhất là về kinh tế, xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, dù quan trọng đến đâu cũng chỉ vạch hướng, tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của dân, không thể trực tiếp tạo ra
kết quả cụ thể trong sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nếu không
có sự đồng thuận và tích cực thực hiện của dân.
Như vậy, kết
quả thực hiện chủ trương, chính sách phải do nỗ lực hoạt động của dân.
Ngay cả khi Nhà nước đầu tư trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, doanh
nghiệp của Nhà nước để cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho người dân, thì nhà
nước cũng sử dụng các nguồn lực của dân để làm việc đó, và trong nhiều
trường hợp, chất lượng, hiệu quả lại không bằng người dân tự tổ chức
làm.
Về vai trò quyết định của dân đối với sự phát triển của đất
nước, mọi người đều công nhận và thường xuyên nhắc tới. Tuy nhiên, trong
nhận thức và hành động thực tế có không ít trường hợp điều đó bị lãng
quên mà chỉ thấy sự lãnh đạo và quản lý của Đảng, của Nhà nước.
Một ví dụ: báo cáo trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ đầu tháng 5
vừa qua về tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2009 có
câu mở đầu như sau: “Nhờ sự chỉ đạo tập trung quyết liệt của Chính phủ
và sự nố lực của các ngành, các cấp, kết quả thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội trong 4 tháng có thấp hơn cùng kỳ năm trước, nhưng
đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực”. Như vậy, những cố gắng của
dân không được tính đến. Cách suy nghĩ này cũng khá phổ biến trong nhiều
cơ quan và cả trên báo chí.
Chúng ta biết rằng khi nền kinh tế
đứng trước nguy cơ suy giảm và lạm phát do những yếu kém bên trong và
chịu tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính - kinh tế trên thế giới,
thì dân và doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân, là người gặp nhiều
khó khăn nhất, phải vật lộn rất gay go mới có thể tồn tại và phát triển.
Những chính sách và biện pháp tình thế của Chính phủ nếu đáp ứng kịp
thời yêu cầu của thực tế thì chỉ có thể làm giảm bớt khó khăn và tạo
thêm điều kiện cho việc làm ăn của dân và doanh nghiệp; người dân và
doanh nghiệp phải vận động tự thân là chính. Đây chính là tiềm năng to
lớn nhất cho sự phát triển.
Mọi người đều đánh giá nền nông
nghiệp và nông dân nước ta trong năm 2008 và đầu năm 2009 đã duy trì tốt
đà tăng trưởng, góp phần quan trọng ổn định tình hình kinh tế, tạo
thuận lợi cho các ngành và lĩnh vực hoạt động khác. Trong thành tựu của
nông nghiệp, có phần nhờ tác động của các chính sách và đầu tư từ nhiều
năm nay của Nhà nước; song nói riêng về các biện pháp kích cầu để vượt
qua khó khăn, ngăn chặn suy giảm kinh tế thì đến tháng 4 năm nay Chính
phủ mới có chính sách ưu đãi đối với nông dân và việc thực hiện còn phải
có thời gian. Vì vậy đối với một số chuyển biến tích cực của nền kinh
tế trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nếu chỉ thấy “sự chỉ
đạo tập trung kiên quyết của Chính phủ và sự nỗ lực của các ngành, các
cấp” thì đó là cách nhìn rất phiến diện vì không đánh giá đúng những cố
gắng rất to lớn của dân và doanh nghiệp.
Nhận thức sâu sắc vai
trò và tiềm năng to lớn của dân là nền tảng về tư duy để hoạch định
chính sách đổi mới và phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền
thật sự của dân, do dân, vì dân.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X
đã nêu rõ: “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và
công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân”. Để thực hiện yêu cầu
đó, câu hỏi: “Ai nuôi Nhà nước và cả hệ thống chính trị ở Việt Nam?” cần
được mọi người trong bộ máy công quyền cũng như mọi người dân trả lời
rõ và ghi nhớ trong lòng.