Thursday 31 March 2011

Basam.info đã bị hacked !! Hic, Mất một trang web/blog ưa thích !!

373.Luật gia Nguyễn Tường Tâm – Bẻ gẫy 10 bằng chứng kết tội Cù Huy Hà Vũ

Luật gia Nguyễn Tường Tâm – Bẻ gẫy 10 bằng chứng kết tội Cù Huy Hà Vũ

Sắp tới ngày lên đường tham dự phiên tòa xét xử người anh hùng Cù Huy Hà Vũ, thiết tưởng việc xem lại các luận chứng buộc tội và gỡ tội cho Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là một việc làm hữu ích.

Để dễ theo dõi, bài này được soạn theo bố cục sau:

  • Mở đầu là bằng chứng số 10 là bài viết của ông Nguyễn Thanh Ty, được luật sư biện hộ yêu cầu loại trừ vì không cần thiết.
  • Kế đó là bằng chứng số 9 được biện minh bằng cách áp dụng học thuyết về hành vi chưa hoàn thành (incomplete attempt).
  • Thứ ba là bằng chứng số 8 được biện minh bằng cách áp dụng học thuyết về bằng chứng gián tiếp (circumstantial evidence).
  • Sau đó là 7 bằng chứng khác hoàn toàn được biện minh bởi chính luận điểm và câu văn của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong các bài do VKS viện dẫn, là ông đã nói và viết sự thật nên không thể kết án ông tội “xuyên tạc, phỉ báng” như cáo trạng của VKS.

Nói chung thì việc đánh đổ luận chứng buộc tội của VKS đối với TS Cù Huy Hà Vũ thì rất dễ dàng. Nhưng các vị chánh án và hội thẩm có xét xử theo lương tâm và luật pháp của các nước văn minh hay không lại là một chuyện khác.

TRANH LUẬN VỀ CÁC BẰNG CHỨNG

Sự thật không cần chối cãi là Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (CHHV) có “làm ra, tàng trữ, và lưu hành một số các tài liệu, và văn hóa phẩm” nhưng các tài liệu và văn hóa phẩm đó không có nội dung chống “Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam” như VKS khởi tố; mà đó chỉ là những tài liệu đương sự bày tỏ sự bất đồng ý kiến với chính quyền về một số vấn đề. Việc bày tỏ bất đồng ý kiến của đương sự chỉ là việc thực hiện những “hành vi tham gia quản lý nhà nước và thảo luận các vấn đề chung của cả nước,” một quyền Hiến định.

Nhưng để khởi tố CHHV, VKS đã viết, “Các bài viết và trả lời phỏng vấn của Cù Huy Hà Vũ nêu trên đã có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, phỉ báng chính quyền và thể chế nhà nước, xuyên tạc cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng…

Tóm lại, VKS đã khởi tố CHHV hai loại tội danh nằm chung trong tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” qui định ở điều 88 là:

1. Đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt nam, đòi đa nguyên đa đảng.

2. Xuyên tạc và phỉ báng Đảng, Nhà Nước, chính quyền, và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Mười bài báo của CHHV được VKS dùng làm bằng chứng buộc tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được người viết đánh số theo thứ tự từ 1 tới 10, cho dễ theo dõi và viện dẫn và sau đây tác giả xin bác bỏ từng điểm một trong bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát.

Bằng chứng thứ 10 VKS dùng để khởi tố CHHV, đó là bài của ông Nguyễn Thanh Ty có tựa đề “Bom áp nhiệt nổ giữa Ba Đình”, VKS cho rằng bài báo đó có “nội dung xuyên tạc Đảng cộng sản Việt Nam, phỉ báng chính quyền.” Nhưng thật ra bài báo đó không có nội dung xuyên tạc hay phỉ báng chính quyền, mà bài báo chỉ tường thuật hai sự thật:

Sự thật thứ nhất là nội dung những bài viết và những phát biểu của CHHV lâu nay về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa của đất nước, mà trong việc trình bày sắp tới người viết sẽ biện minh về tất cả những nội dung đó.

Sự thật thứ nhì là tuyên bố của nhà văn Trần Mạnh Hảo trong bài nói chuyện công khai tại Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ 8 diễn ra từ 4 đến 6 tháng 8 năm 2010. Nội dung các tuyên bố của nhà văn Trần Mạnh Hảo là đúng sự thật hay “xuyên tạc Đảng cộng sản, phỉ báng chính quyền” thì thiết tưởng tòa án cần triệu tập, khởi tố chính nhà văn Trần Mạnh Hảo trong một vụ án khác chứ không liên quan gì tới vụ án xét xử CHHV.

Nếu nhà văn Trần Mạnh Hảo chưa bị khởi tố về nội dung bị cho là “xuyên tạc Đảng và phỉ báng chính quyền” của bản tuyên bố của ông ta thì không thể dựa vào bản tuyên bố đó mà khởi tố CHHV tội tàng trữ bài báo đó.

Bởi vậy việc liệt kê bài báo của ông Nguyễn Thanh Ty trong danh sách các bằng chứng là không cần thiết. Tất cả những bài viết và phát biểu của CHHV bị VKS lên án đều sẽ được trình bày trong phần biện minh dưới đây.

Bằng chứng số 9 trong bản cáo trạng của VKS là bài “Bàn về Đảng cầm quyền”. Về bài báo này, VKS ghi nhận, “Vũ đang viết, chưa xong. Nội dung phỉ báng, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam bằng lời lẽ: “… Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền hay độc tài?… chế độ chính trị ở Việt nam trên thực tế là chế độ độc đảng hay độc tài”.

Bản cáo trạng của VKS ghi nhận bài viết của CHHV chưa xong; đương sự đang viết. Như vậy bài báo này mới đang ở giai đoạn chuẩn bị, chưa hoàn thành. Về mặt học lý, một hành vi mới ở giai đoạn chuẩn bị, chưa hoàn thành thì chưa thể bị kết tội, bởi vì, theo học lý, “từ chuẩn bị tới hành động là một đoạn đường còn xa. Và trên đoạn đường đó, nghi can có thể thay đổi ý định và dừng tay lại. Luật pháp văn minh không muốn trừng phạt nghi can ở giai đoạn chuẩn bị còn vì muốn khuyến khích nghi can ngừng phạm tội; tránh tình trạng nghi can nghĩ rằng đã “mình đã lỡ rồi” nên phạm tội luôn. Xin dẫn chứng một vụ án điển hình của học lý “không trừng trị một hành vi chưa hoàn thành”, còn ở giai đoạn chuẩn bị như sau: Theo học lý, một tiến trình hành động gồm có 3 giai đoạn: lập kế hoạch (planning phase), chuẩn bị (preparation phase), và thi hành (execution phase).

Trong bài “The Problem of the Incomplete Attempt” (Vấn đề hành vi không được hoàn toàn thực hiện) viết bởi David M. Adams trên trang mạng (http://findarticles.com/p/articles/mi_hb6395/is_3_24/ai_n28719106/) về vụ án có tên “People v. Miller” trong tòa án Hoa Kỳ. Trong nội vụ, “nghi can tên Miller được tòa tha bổng tội mưu sát (attempted murder) sau khi đã báo cho một nhân chứng biết là anh ta sẽ giết một công nhân làm việc trong một nông trại gần đó. Miller mang khẩu súng trường bước vào trang trại nơi có nạn nhân dự trù đang làm việc và tiến tới nạn nhân. Khi còn cách khoảng 100 mét, nghi can dừng lại và dường như nạp đạn, nhưng không đưa súng lên nhắm. Nạn nhân bỏ chạy và nghi can buông súng trong đó đã có đạn. Rõ ràng là nghi can đã không hoàn toàn thực hiện kế hoạch dự trù.” (1)

Dựa trên học thuyết này, vì bài báo của CHHV chưa hoàn tất; đó là một hành vi chưa hoàn thành, nên không thể kết án CHHV về bài báo này.

Thêm nữa, nội dung bài báo như bản cáo trạng ghi, “… Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền hay độc tài?… chế độ chính trị ở Việt nam trên thực tế là chế độ độc đảng hay độc tài” thì chỉ là hai câu hỏi do CHHV nêu lên. Đương sự chưa xác định ý kiến của mình thì không có cơ sở gì để khởi tố thân chủ đương sự tội “phỉ báng, xuyên tạc Đảng cộng sản” được.

Bằng chứng số 8 trong bản cáo trạng của VKS là bài báo trong đó VKS viết rằng CHHV đã “kết án chính quyền chỉ nhằm tham nhũng qua bài “Đuờng sắt cao tốc Bắc Nam …”, thì ý kiến của CHHV là một sự thật khó thể chối cãi.

Tuy rằng trong bài “Đường sắt cao tốc..”, CHHV không đưa ra bằng chứng trực tiếp của sự tham nhũng, nhưng qua những vụ tham nhũng nổi tiếng tràn lan trong quá khứ của những cán bộ cao cấp trong đảng và nhà nước; trong đó có những vụ lớn như vụ tham nhũng tiền viện trợ và cho vay của Nhật Bản, vụ in tiền polimer với Úc, và mới đây nhất là vụ Vinashin thua lỗ trên 4 tỉ đô la Mỹ (Theo bài báo, “Vinashin không thể gặp chủ nợ” của đài BBC ngày mùng 7/3/2011) CHHV và dân chúng có quyền đặt câu hỏi về tình trạng tham nhũng tràn lan của các cán bộ cao cấp trong chính quyền bấy lâu nay.

Ngoài ra, để kiểm chứng sự thật trong nhận định của CHHV, Tòa cần áp dụng lý thuyết luật học về “bằng chứng gián tiếp” (Circumstantial evidence) mà hiện nay đang được tòa án ở các quốc gia văn minh trên thế giới áp dụng để xác minh là sự thật những tố giác của CHHV về nạn “tham nhũng tràn lan trong giới lãnh đạo cao cấp trong đảng và chính phủ”lâu nay. Để xác định một cán bộ nhà nước có tham nhũng hay không chỉ cần xét xem số gia tăng tài sản của họ có bất minh hay không và cùng với sự gia tăng tài sản đó họ có đóng thuế tương ứng hay không. Việc kiểm tra này thực là dễ dàng bằng việc áp dụng luật “kê khai tài sản” cho tất cả các cán bộ lãnh đạo chính phủ và trung ương đảng. Cho tới nay giới lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng và chính phủ, kể cả bộ chính trị, đã không dám áp dụng luật kiểm kê tài sản để chứng minh việc gia tăng tài sản khổng lồ của họ và thân nhân có nguồn gốc minh bạch, hợp pháp, thì không thể khởi tố CHHV tội danh “kết án chính quyền chỉ nhằm tham nhũng” qua bài báo viện dẫn.

Bản cáo trạng của VKS có viện dẫn bằng chứng số 1 là bài: “Phải đa đảng mới chống đuợc lạm quyền”, CHHV trả lời phỏng vấn của đài Châu Á Tự do (RFA) ngày 01/2/2010, trong đó VKS viết rằng CHHV đã “xuyên tạc, phỉ báng chính quyền bằng lời lẽ: “hiện nay ở Việt Nam người ta sử dụng ngân sách vô tội vạ và rất nhiều tiền từ ngân sách Nhà nước chi vào những việc thậm chí là Mafia…”

Qua nội dung bài viết viện dẫn, CHHV đã viết lên 100% sự thật; và vì thế không thể khởi tố CHHV tội danh “xuyên tạc, phỉ báng chính quyền” được, bởi vì xuyên tạc, phỉ báng là nói sai sự thật để làm mất phẩm giá hay danh dự, danh tiếng của một cá nhân hay tổ chức nào đó.

Thật là dễ dàng dẫn chứng tình trạng mafia đang nắm những vai trò cao cấp hay lãnh đạo tại trung ương hay các địa phương. Ví dụ các vụ ăn chặn tiền rồi chia chác nhau giữa những cán bộ cấp lãnh đạo đã bị các cơ quan nước ngoài tố giác với một số bị truy tố và kết án tại Việt Nam, một số không bị truy tố. Vụ nhiều nữ sinh trung học, vị thành niên bị hiệu trưởng toa rập với giới cán bộ lãnh đạo tỉnh Hà Giang hiếp dâm, cưỡng bách mua dâm sau đó bị cho chìm xuồng và 2 nữ sinh từ nạn nhân biến thành thủ phạm bị án tù…và còn nhiều vụ nữa xảy ra trong xã hội mà báo chí loan tin hàng ngày cho thấy tình trạng mafia trong giới cán bộ cao cấp trong chính quyền không phải là hiếm.

Để dẫn chứng sự thật “chính quyền xử dụng ngân sách vô tội vạ,” trong bài “Phải đa đảng…” CHHV đã nêu hai vụ việc cụ thể là vụ chính quyền giải tỏa nghĩa trang Thanh Mai ở quận Hoàng Mai, Hà Nội, và vụ chính quyền tổ chức đập bỏ hàng rào ở nhà của đương sự vào buổi sáng và sau đó nhận thấy hành vi đập phá này là trái pháp luật nên đã cho lắp lại một hàng rào khác vào buổi tối cùng ngày.

Theo CHHV, đây chỉ là hai vụ điển hình của việc “chính quyền xử dụng ngân sách vô tội vạ,”. Trong thực tế còn “vô số trường hợp bị cưỡng chế, giải tỏa nhà, thu hồi đất đã xảy ra trên khắp Việt Nam.

Các vụ giải tỏa đất đai bất công đã khiến hàng ngàn dân chúng tập trung tại thủ đô biểu tình trong nhiều tháng trời trong thời gian qua đã được các báo, đài đưa tin và thậm chí cả trang mạng youtube đưa tin bằng hình ảnh. Thiết tưởng không cần nêu thêm ra đây nữa. Đó là những bằng chứng sống động của sự thật như CHHV đã viết “Hiện nay ở Việt Nam người ta sử dụng ngân sách vô tội vạ và rất nhiều tiền từ ngân sách nhà nước chi vào những việc thậm chí có thể gọi là mafia. Tức là dùng vào những việc hoàn toàn khuất tất, chống lại lợi ích của nhân dân. Ví dụ như là việc cưỡng chế. Cưỡng chế nhiều lúc trái pháp luật. Cướp đất của nhân dân hẳn hoi nhưng lại sử dụng tiền đấy để nuôi bộ máy đi cướp đất của người dân. Nuôi từ công an đến dân phòng, nuôi những lực lượng đi đóng cọc rồi khoanh vùng, đập phá nhà cửa của người dân. Chuyện ấy như cơm bữa ở Việt Nam, trên diện vô cùng rộng.”

Tóm lại, bài báo này hoàn toàn trình bày sự thật nên không thể được dùng làm bằng chứng kết tội CHHV “xuyên tạc, phỉ báng chính quyền.”

VKS dựa trên bằng chứng số 2 là bài: “Chiến tranh Việt Nam và ngày 30 tháng 4 dưới mắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ”, do CHHV trả lời phỏng vấn của đài VOA ngày 29/ 4/2010 để khởi tố CHHV đã “xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược” bằng lời lẽ: “…Tóm lại, việc duy trì cho Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo đất nuớc không khác hơn là để phục vụ lợi ích phi pháp một nhóm nhỏ trong Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại với lợi ích của đại đa số nhân dân trong đó có hàng triệu đảng viên cộng sản và vì vậy quyết không thể kéo dài hơn được nữa”. “Nhân đây, một lần nữa tôi kêu gọi ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam mau chóng thực hiện chế độ đa đảng ở Việt Nam bởi nếu không, hòa hợp, hòa giải dân tộc sẽ trở thành lừa dối dân tộc với hậu họa đã có thể nhìn thấy truớc…”

Trước tiên, một điều đáng lưu ý là VKS đã nối liền 2 ý vốn không có liên hệ với nhau. Ý thứ nhất là “Xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược” và ý thứ hai là “việc duy trì cho Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo đất nuớc không khác hơn là để phục vụ lợi ích phi pháp một nhóm nhỏ trong Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại với lợi ích của đại đa số nhân dân trong đó có hàng triệu đảng viên cộng sản và vì vậy quyết không thể kéo dài hơn được nữa”.

Trước tiên, để phản biện ý thứ nhất, người ta dễ dàng thấy CHHV không “xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược”. Bằng cớ là trong cuộc phỏng vấn, CHHV vẫn trân trọng tuyên bố: “Có một thực tế là Mỹ đã thua trận trước các lực lượng cộng sản Việt Nam”

Nhưng tiếp theo đó CHHV đã bàn tiếp về nghĩa chủ nghĩa cộng sản. CHHV không nói sai sự thật khi viết rằng, “chủ nghĩa cộng sản dưới màu sắc chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ là một hiện thực ở Việt Nam bởi cho đến ngày hôm nay hệ tư tưởng ấy vẫn chỉ là “định hướng” như chính ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam thừa nhận.” CHHV cũng nói đúng sự thật khi viết tiếp, “Cốt lõi của chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lê Nin là kinh tế Nhà nước chỉ huy hay kinh tế tập trung, kinh tế tư nhân được coi là “bóc lột người” bị loại trừ. Thế nhưng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã phá sản tuyệt đối vào năm 1985 khi chính sách giá-lương-tiền của Chính phủ Việt Nam gây lạm phát tới 900%, dẫn đến kinh tế tư nhân hay kinh tế thị trường được Đảng cộng sản Việt Nam phục hồi tại Đại hội 6 của Đảng vào năm sau, 1986.” Và CHHV cũng ghi nhận đúng sự thật khi viết, “Nhưng phải đến năm 1990 thì chủ nghĩa tư bản mới được chính danh bằng Luật Công ty và doanh nghiệp tư nhân. Và Đại hội 10 của đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra cách đây 4 năm đã hoàn tất công cuộc phá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng cách chính thức cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân.”

Với những ghi nhận đúng sự thật như vậy, CHHV đã rất có lý khi viết, “Sở dĩ có chuyện ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam nói một đằng, làm một nẻo là vì họ sợ mất quyền lợi của bản thân.” Và vì thế, thật là hợp lý khi CHHV kết luận, “việc duy trì cho Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo đất nước không gì khác hơn là để phục vụ lợi ích phi pháp của một nhóm nhỏ trong Đảng cộng sản Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có hàng triệu đảng viên cộng sản và vì vậy quyết không thể kéo dài hơn được nữa!” Khi ghi nhận đúng sự thật khách quan về các hoạt động của đảng và chính quyền từ năm 1985 tới nay thì CHHV không thể bị khởi tố tội xuyên tạc như trong bản cáo trạng của VKS. Và nhất là CHHV không “xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược” khi trong bài viện dẫn CHHV vẫn trân trọng tuyên bố: “Có một thực tế là Mỹ đã thua trận trước các lực lượng cộng sản Việt Nam”

Bằng chứng số 4 trong danh sách các bằng chứng của VKS đưa ra là bài “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc”, do CHHV trả lời phỏng vấn của đài RFA ngày 31/8/2010, đồng thời gửi lên trang “Bauxite Vietnam”.

Dựa vào bằng chứng này VKS đã kết án CHHV bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Phê phán Nhà nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây chia rẽ, thù hằn dân tộc bằng lời lẽ: “ …Tiếc thay cho ban lãnh đạo nhà nước Việt nam thống nhất đã không làm đuợc như thế mà ngược lại – phải nói thật – còn sát muối vào vết thương chiến tranh chưa kịp lên da bằng việc tập trung cải tạo trong hàng năm trời cả trăm nghìn quân nhân, viên chức VNCH, ….đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ vào vòng xoáy thù hận, dẫn đến một số quay ra chống chính quyền mới, để rồi bị kết tội xâm phạm an ninh quốc gia”

VKS đã kết án CHHV hai điểm: Thứ nhất là kết án CHHV “bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.” và thứ nhì là, “Phê phán Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây chia rẽ, thù hằn dân tộc.”

Trong bản kiến nghị viện dẫn, không có điều nào cho thấy CHHV “bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” như VKS vu cáo. Trái lại CHHV đã nhận định đúng đắn “Đó là cuộc chiến tranh nhằm thống nhất đất nước để Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã dành được cách đây 65 năm, ngày 2/9/1945, được toàn vẹn.” Vì vậy không thế kết án CHHV “bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” được.

Về điểm thứ nhì, CHHV đã nêu lên một sự thật khác nữa là, “một khi chiến tranh chấm dứt thì xoá bỏ hận thù giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến hay Hòa giải Dân tộc là Nghĩa vụ, và hơn thế nữa, là Đạo lý của mọi người Việt Nam. Và trong sự nghiệp Hoà giải này –những người chiến thắng phải đi bước trước, mà giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ Chung – Tổ Quốc, để mọi người Việt dẫu chính kiến có khác biệt lại xum họp Một Nhà!” Sự thật này là một khát vọng tốt đẹp của toàn dân Việt sau chiến tranh cũng đã từng được cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt nêu lên.

Từ sự thật trên, đưa tới một sự thật khác mà CHHV nêu lên như sau, “Trớ trêu thay, ban lãnh đạo của nước Việt Nam thống nhất sau 30 năm chiến tranh chẳng những đã không học tập tấm gương Hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà ngược lại, còn khoét sâu vết thương của Dân tộc bằng việc tập trung “cải tạo” trong nhiều năm trời cả trăm nghìn quân nhân, viên chức Việt Nam Cộng hòa, bằng kỷ niệm liên tục 35 năm nay “Ngày giải phóng Miền Nam” đậm chất “thắng – thua”… đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ rơi vào vòng xoáy của sự thù hận với hệ quả là một số người bị chính quyền mới kết vào “tội xâm phạm an ninh quốc gia”!

Và hận thù ấy lại dẫn đến chia rẽ khác không kém phần đau đớn, lần này ngay trong nội bộ những người đã ca khúc khải hoàn, bởi có mấy gia đình Việt Nam không có người thân ở bên kia chiến tuyến.

Kinh khủng hơn nữa, chính những hận thù và chia rẽ dân tộc ấy đang từng ngày, từng giờ tiếp tay cho nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!”

Quả thật! Dựa vào những sự thật vừa nêu, CHHV đã “phê phán Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tức là phê phán chính quyền hiện nay gây chia rẽ, thù hằn dân tộc”. Việc chính quyền vẫn tiếp tục gây chia rẽ, hận thù dân tộc qua sự kiện trong 35 năm qua liên tục tổ chức lễ kỷ niệm “Ngày giải phóng Miền Nam” đậm chất “thắng – thua” là một sự thật cần phải chấm dứt để thực hiện Hòa giải dân tộc thực sự theo gương Hồ Chủ Tịch. Phê phán chính quyền, bằng những sự thật, là thực hiện quyền của Công dân “ tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước” theo điều 53 HP. Như vậy không ai có thể khởi tố CHHV chỉ vì đương sự vừa nêu lên một sự thực khách quan, vừa thực thi một quyền hiến định.

Bằng chứng thứ 6 trong bản cáo trạng của VKS là “Bài: “Tam quyền nhất lập” đồng lòng hại dân. VKS nhận định bài báo đó “có nội dung tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền và thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” với lời lẽ: “…Vậy là cả Chính phủ, Tòa án, Quốc hội, cả hành pháp, tư pháp và lập pháp đồng lòng hại dân. ngược lại 180 độ với Hiến pháp tại điều 2…” Ở đây CHHV chỉ viết sự thật và đã chứng minh các dữ kiện trong bài báo là sự thật nên không thể khởi tố đương sự tội “tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng…”

Những bằng chứng của sự thật đã được CHHV dẫn chứng được tóm tắt như sau: “Vậy đâu là nguyên nhân của sự bất công nói trên? Cả bốn hộ dân khẳng định: “Văn phòng Chính phủ gạt chúng tôi khỏi danh sách tái định cư tại 218 Đội Cấn cốt thừa ra 233 m2 tại địa chỉ đắc địa này để “làm ăn”, cụ thể là xây nhà để bán cho người chưa bao giờ ở số 2 Thụy Khuê. Hiện giờ một chung cư gồm 15 căn hộ đã được xây xong và bán hết cho những người ngoài số 2 Thụy Khuê”.

Sau đó, để trợ giúp các nạn nhân, ngày 08/01/2010, Văn phòng luật sư Cù Huy Hà Vũ đã gửi Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Thu Ba để khiếu nại và đề nghị vị Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc Hội cho biết:

1. Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Xuân Phúc không giải quyết Đơn khiếu nại của các công dân có quyền và lợi ích hợp pháp bị Văn phòng Chính phủ xâm phạm có vi phạm Luật khiếu nại, tố cáo hay không?

2. Chánh án TAND TP Hà Nội không thụ lý Đơn khởi kiện vụ án hành chính v/v Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc không giải quyết Đơn khiếu nại của các công dân bị Văn phòng Chính phủ xâm phạm theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo có vi phạm Luật Khiếu nại, tố cáo hay không?

3. Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP không giải quyết Đơn khiếu nại, Tòa án không thụ lý Đơn khởi kiện vụ án hành chính của các công dân bị Văn phòng Chính phủ xâm phạm theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo thì Luật này có còn giá trị hay không? Quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân này sẽ do cơ quan Nhà nước nào giải quyết?

Nhưng Văn phòng luật sư Cù Huy Hà Vũ đã không nhận được bất cứ hồi âm nào của Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Thu Ba.

Như vậy CHHV đã hoàn toàn viết đúng sự thật khi viết “Vậy là cả Chính phủ, Tòa án, Quốc hội, cả Hành pháp, Tư pháp và Lập pháp đồng lòng hại dân, ngược 180 độ với Hiến pháp tại Điều 2 và Điều 3. Và do đó CHHV không thể bị khởi tố tội “tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng…” như cáo trạng của VKS.

Bằng chứng số 7 trong bản cáo trạng của VKS là “Bài “Bà Trần Khải Thanh Thủy cố ý gây thương tích và dấu hiệu bẫy người khác phạm tội”. VKS đã nhận định bài báo này “có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền trong việc bắt giữ, điều tra Trần Khải Thanh Thủy” với lời lẽ: “…vụ bà Trần Khải Thanh Thủy “cố ý gây thương tích” đã có dấu hiệu rõ rệt của một vụ khiêu khích hay bẫy người khác phạm tội thực hiện bởi chính cơ quan trấn áp tội phạm”(BL 141, 208 đến 212). Trái với nhận định của VKS, trong bài báo này CHHV trình bày hoàn toàn đúng sự thật. Đương sự viết,

• Bốn là, “Anh Điệp bị chảy nhiều máu, ngất đi, được nhân dân và Công an phường Trung Phụng đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đống Đa”. Thế nhưng bức ảnh đăng trên báo An ninh Thủ đô ngày 10/10 lại cho thấy nhân vật Điệp ngồi để được băng bó. Không lẽ lại có kiểu “ngất ngồi”?!

• Sáu là, việc Công an lấy lời khai của các nhân chứng nhưng không một lần lấy lời khai của cháu Khuê, con gái 13 tuổi của vợ chồng bà Thủy, người đã chứng kiến “sát sàn sạt” sự việc từ đầu chí cuối.

Cũng như vậy, bà Thủy bị nhân vật Điệp đánh vào đỉnh đầu gây chảy máu (cháu Khuê đã chụp ảnh và trong nhà bà Thủy hiện còn nhiều vết máu) nhưng Công an lại không cho bà Thủy đi bênh viện và trên thực tế không báo nào đả động đến việc bà Thủy bị đả thương.

CHHV viết tiếp, các sự kiện trên đủ để nói rằng Công an hoàn toàn làm trái pháp luật khi chỉ thu thập chứng cứ chống lại vợ chồng bà Thủy và cố tình để lọt tội phạm bằng cách không đưa nhân vật Điệp vào vòng tố tụng.

Ngoài ra, tấm ảnh do Công an cung cấp in rõ ngày chụp 9/10/2009 đăng trên báo Dân trí ngày 9/10 lại bị phát hiện là một tấm ảnh ghép. Nếu tòa cho chuyên viên kỹ thuật xét nghiệm lại ngày chụp tấm ảnh sẽ thấy rõ sự ghép hình gian dối của cơ quan công an.

Nói tóm lại, những sự thật hiển nhiên vừa trình bày cho thấy việc làm hoàn toàn trái pháp luật của công an. Và do đó không thể kết tội CHHV “xuyên tạc, phỉ báng chính quyền” như cáo buộc của VKS.

Bằng chứng 3 trong bản danh sách các bằng chứng của VKS là bài: “TS Cù Huy Hà Vũ từ khởi kiện thủ tướng đến yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp” do CHHV trả lời phỏng vấn của đài VOA khoảng tháng 6/2010. Dựa trên bài phỏng vấn này, VKS khởi tố CHHV về tội danh “đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, và kêu gọi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp”

Quả thực CHHV có “đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, và kêu gọi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp”. Nhưng nên hiểu rằng hai đòi hỏi này thực sự ra chỉ là một với hai cách diễn lời khác nhau mà thôi. Hoặc ta có thể nói “đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” hoặc ta có thể nói “đòi xóa bỏ điều 4 Hiến Pháp.”

Nếu đã nói nhà nước ta tôn trọng quyền tự do ngôn luận thì việc người dân nêu kiến nghị hay yêu cầu hay đòi hỏi bất cứ điều gì trong tinh thần bất bạo động thì là quyền của họ. Không ai có thể bị khởi tố vì việc hành xử quyền tự do ngôn luận, một quyền hiến định.

Thêm nữa, để biện minh tính chính đáng cho yêu cầu của mình, CHHV đã lý luận một cách đúng đắn rằng, “Thực vậy, ở các quốc gia thực sự dân chủ hay thực sự pháp quyền thì việc công dân kiện người đứng đầu Chính phủ hay nguyên thủ quốc gia thậm chí là chuyện đáng khuyến khích vì nó thể hiện ở mức độ mẫu mực nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Thế nhưng ở Việt Nam, mặc dầu nguyên tắc trên được Hiến pháp quy định rất rõ ràng ở Điều 52 và mặc dầu được cả một hệ thống các đạo luật, từ Luật Khiếu nại, tố cáo cho đến Pháp lệnh, thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành bảo hộ, việc công dân khởi kiện ra tòa quan chức chính quyền dù ở cấp thấp do có những hành vi hay quyết định hành chính trái pháp luật trên bình diện chung vẫn là bất khả thi. Nghĩa là Việt Nam đang ở trong một “quái trạng pháp luật”!

Khi lên án tình trạng pháp luật Việt Nam là một “quái trạng”, CHHV chỉ lập lại ý của hai vị luật gia khả kính của nhà nước. Người thứ nhất là Luật sư Ngô Bá Thành, luật sư dưới 2 chế độ, từng là đại biểu Quốc hội ở Hà Nội. Luật Sư Thành từng thốt lên:“Ở Việt Nam ta đã có cả một rừng luật nhưng khi xét xử lại dùng luật rừng!”. Vị khả kính thứ nhì là Chánh án Toà án Nhân dân tối cao Trịnh Ngọc Dương. Năm 2008, Chánh án Dương đã tuyên bố xanh rờn ngay trước Quốc hội: “Ở nước ta xử đúng cũng được, xử sai cũng được, xử hòa cũng được, xử thắng cũng được”

CHHV phát biểu tiếp, “nguyên nhân của quái trạng pháp luật ở Việt Nam chính là sự độc quyền lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản được Hiến pháp ghi ở Điều 4.”

Khi phân tích điều 4 HP, CHHV nhận định “cần xem Điều 4 Hiến pháp có hợp lý không đã. Nếu không có lý thì xóa bỏ là chuyện hoàn toàn bình thường.” Sau khi trích dẫn nguyên văn điều 4 Hiến pháp là: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, CHHV nhận định, “Ở đây có nhiều phi lý đến cùng cực.

Thứ nhất, điều 4 HP ghi, “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước” mà Nhà nước là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp, tức gồm cả Quốc Hội. Nghĩa là đảng lãnh đạo Quốc Hội.

Thế nhưng, cũng vẫn Điều 4 Hiến pháp lại ghi: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” thì điều này có nghĩa Đảng cộng sản Việt Nam phải tuân thủ Điều 83 Hiến pháp theo đó “Quốc Hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Nghĩa là trên Quốc Hội không còn cơ quan quyền lực nào khác có thể lãnh đạo, có thể ra lệnh cho Quốc Hội.”

Ở đây, rõ ràng, do có điều 4 HP mà có sự mâu thuẫn giữa vai trò của Đảng và Quốc Hội như vừa phân tích. Cơ quan nào lãnh đạo cơ quan nào không rõ ràng. Đảng là cơ quan cao nhất nước như theo điều 4 HP hay Quốc hội là cơ quan cao nhất nước như theo điều 83 HP?. Việc soạn thảo Hiến Pháp, một văn bản luật căn bản mà lại có hai điều qui định mâu thuẫn nhau như vậy chứng tỏ người soạn thảo dốt nát không thể chấp nhận được. Vì thế CHHV đề nghị bỏ điều 4 HP là cách hợp lý nhất để giải quyết mâu thuẫn này.

CHHV viết tiếp, “Thứ hai, vẫn theo Điều 4 Hiến pháp, Đảng cộng sản Việt Nam được quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội là vì đảng là “đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Thế nhưng “đại biểu” phải là kết quả của bầu cử.” Và rồi CHHV ghi nhận một sự thật mà toàn dân, kể cả tòa án, đều biết là, “chưa có ai từng nghe Đảng cộng sản Việt Nam hay ai đó nói rằng trong cuộc bầu cử X, Y, Z nào đó đảng được “giai cấp công nhân”, “nhân dân lao động” và “cả dân tộc” bầu làm “đại biểu”cho họ.”

CHHV viết tiếp, “Nói cách khác, “đại biểu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” dứt khoát là sự mạo nhận của Đảng cộng sản Việt Nam, không phải do bầu cử mà có, nên quyết không thể là “chính danh”. Mà đảng đã không “chính danh” thì quyết không thể “lãnh đạo” bất kỳ ai!”

Rồi CHHV kết luận, “Tóm lại, Điều 4 Hiến pháp Việt Nam vừa tạo mâu thuẫn về vai trò giữa Đảng và Quốc Hội vừa cho thấy sự mạo nhận tính cách đại biểu nhân dân của Đảng Cộng Sản, do đó điều 4 HP là hoàn toàn phi lý và vì vậy dứt khoát phải xóa bỏ.” Những phân tích vừa rồi cho thấy quan điểm của CHHV là hữu lý và là một đóng góp to lớn cho nền tư pháp Việt nam, vì thế không thể khởi tố CHHV về hành động hợp pháp và có chủ đích tốt đẹp đó được.

Bằng chứng thứ 5 trong bản danh sách các bằng chứng của VKS khởi tố CHHV là bài “phóng viên Trâm Oanh phỏng vấn Cù Huy Hà Vũ vào tháng 10/2010”. VKS nhận định bài phỏng vấn “có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam bằng lời lẽ: “…chính quyền dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay đang ngày càng trở lên thối nát…”.

Về bằng chứng này, có ba điểm cần trình bày. Thứ nhất, CHHV không xuyên tạc khi nói về chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Thứ hai, CHHV không xuyên tạc khi nhận định “…chính quyền dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay đang ngày càng trở lên thối nát…”. Và thứ ba, CHHV đã dựa vào sự thật khi kiến nghị “xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam”.

Thứ nhất, CHHV không xuyên tạc khi nói về chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Phần phản biện bằng chứng số 2 của VKS là bài: “Chiến tranh Việt Nam và ngày 30 tháng 4 duới mắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ”, đã trình bày rõ ràng như sau: CHHV không nói sai sự thật khi viết rằng, “chủ nghĩa cộng sản dưới màu sắc chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ là một hiện thực ở Việt Nam bởi cho đến ngày hôm nay hệ tư tưởng ấy vẫn chỉ là “định hướng” như chính ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam thừa nhận.” CHHV cũng nói đúng sự thật khi viết tiếp, “Cốt lõi của chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lê Nin là kinh tế Nhà nước chỉ huy hay kinh tế tập trung, kinh tế tư nhân được coi là “bóc lột người” bị loại trừ. Thế nhưng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã phá sản tuyệt đối vào năm 1985 khi chính sách giá-lương-tiền của Chính phủ Việt Nam gây lạm phát tới 900%, dẫn đến kinh tế tư nhân hay kinh tế thị trường được Đảng cộng sản Việt Nam phục hồi tại Đại hội 6 của Đảng vào năm sau, 1986.” Và CHHV cũng ghi nhận đúng sự thật khi viết, “Nhưng phải đến năm 1990 thì chủ nghĩa tư bản mới được chính danh bằng Luật Công ty và doanh nghiệp tư nhân. Và Đại hội 10 của đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra cách đây 4 năm đã hoàn tất công cuộc phá bỏ chủ nghĩa xã hội, tức chủ nghĩa Mác- Lê Nin, bằng cách chính thức cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân.”

Khi ghi nhận đúng sự thật khách quan về các hoạt động của đảng và chính quyền từ năm 1985 tới nay là không còn đi theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin nữa, thì CHHV không thể bị khởi tố tội xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lê Nin như trong bản cáo trạng của VKS.

Thứ hai, CHHV đã nói đúng sự thật khi phát biểu, “…chính quyền dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay đang ngày càng trở lên thối nát…”. Tình trạng thối nát thể hiện trên nhiều lãnh vực trong xã hội nhưng rõ ràng nhất là trên lãnh vực tham nhũng. Một tổ chức quốc tế là tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – gọi tắt là TI), đang nhận được tài trợ của một số quốc gia cấp viện để giúp Việt Nam thực hiện chương trình “Phòng, chống tham nhũng cho khu vực nhà nước, tư nhân và xã hội” từ 2009 đến 2012, theo bản tin ngày 16-12-2010 của đài BBC đã công bố một kết quả nghiên cứu đáng buồn là tham nhũng gia tăng tại Việt Nam trong ba năm qua. Trong các lĩnh vực “cảm nhận” có tham nhũng, cảnh sát được cho là ngành đứng đầu tham nhũng ở Việt Nam – với 82% số người được hỏi đồng ý. Theo sau là giáo dục (67%), cán bộ nhà nước, nhân viên hành chính công (61%), và tư pháp (52%). Cũng theo khảo sát, 84% người được hỏi nói họ hối lộ để “đẩy nhanh công việc”. Theo khảo sát, người dân Việt Nam phải đưa hối lộ nhiều hơn so với người dân ở các nước láng giềng – cao hơn cả Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan và chỉ kém Campuchia. Như vậy không thể khởi tố CHHV tội danh “xuyên tạc Đảng và chính quyền” qua nhận định đúng sự thật này.

Thứ ba, CHHV không thể bị khởi tố khi kiến nghị “xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam”. Quan điểm này đã được trình bày trong phần phản biện bằng chứng 3 trong bản danh sách các bằng chứng của VKS, tức là bài: “TS Cù Huy Hà Vũ từ khởi kiện thủ tướng đến yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp” do đó người viết thấy không cần nêu chi tiết ở đây nữa mà chỉ tóm tắt rằng: Nếu đã nói nhà nước ta tôn trọng quyền tự do ngôn luận thì việc người dân nêu kiến nghị hay yêu cầu hay đòi hỏi bất cứ điều gì trong tinh thần bất bạo động, kể cả kiến nghị “xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam” thì là quyền hiến định của họ. Không ai có thể bị khởi tố vì việc hành xử quyền tự do ngôn luận, một quyền hiến định.

Thêm nữa, trong phần phản biện bằng chứng số 3 viện dẫn, CHHV kết luận, “Tóm lại, Điều 4 Hiến pháp Việt Nam vừa tạo mâu thuẫn về vai trò giữa Đảng và Quốc Hội vừa cho thấy sự mạo nhận tính cách đại biểu nhân dân của Đảng Cộng Sản, do đó điều 4 HP là hoàn toàn phi lý và vì vậy dứt khoát phải xóa bỏ.” Qua những phân tích phần phản biện bằng chứng số 3, người ta thấy quan điểm của CHHV là hữu lý và là một đóng góp to lớn cho nền tư pháp Việt nam, vì thế không thể khởi tố CHHV về hành động hợp pháp và có chủ đích tốt đẹp đó được.

*

Kết luận

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ có “làm ra, tàng trữ, và lưu hành một số các tài liệu, và văn hóa phẩm” và VKS đã dựa vào các bài báo và phát biểu đó để khởi tố đương sự hai loại tội danh nằm chung trong tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” qui định ở điều 88 là:

1. – Đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt nam, đòi đa nguyên đa đảng.

2. – Xuyên tạc và phỉ báng Đảng, Nhà Nước, chính quyền, và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Nhưng qua những luận chứng nêu trên, CHHV đã không chống chính quyền tức “Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam” bằng bạo lực mà chỉ xử dụng quyền hiến định tự do ngôn luận (điều 69 HP) để hành xử một quyền hiến định khác là tham gia quản lý nhà nước (điều 53 HP). Và trong việc thực thi các quyền hiến định của mình CHHV chưa bao giờ xuyên tạc cuộc chiến đấu chống Mỹ xâm lược của nhân dân ta; CHHV cũng chưa bao giờ xuyên tạc bất cứ một sự thật nào. Trong 10 bài báo và phát biểu, CHHV luôn luôn trình bày sự thật. Không có một chi tiết nào cho thấy là CHHV bịa đặt để xuyên tạc, phỉ báng. Và dựa vào những sự thật đó, CHHV đã đưa ra kiến nghị hữu lý và hữu ích là bác bỏ điều 4 HP, xóa bỏ vai trò lãnh đạo và “đại biểu tự nhận” của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngay cả việc đưa ra kiến nghị này cũng là việc thực thi một quyền hiến định. Do đó không thể kết án CHHV như cáo trạng của VKS được. Tòa cần phải tha bổng CHHV vì thiếu chứng cớ buộc tội.

*

Ghi chú

1- (b) In People v. Miller,(2) the defendant was acquitted of attempted murder after informing witnesses that he intended to kill a man working as a laborer at a nearby farm. Carrying a .22 caliber rifle, Miller entered the field where the intended victim worked and advanced toward him. At a distance of about 100 yards, Miller stopped and appeared to load the rifle, though he did not lift the weapon as if to take aim. The victim fled and Miller relinquished his weapon, which had been loaded with a high-speed cartridge. Miller, it is clear, failed fully to execute his apparent plan.
(
http://findarticles.com/p/articles/mi_hb6395/is_3_24/ai_n28719106/)

Nguyễn Tường Tâm

Theo Danluan

372.Khủng hoảng Kinh tế Châu Á 1997 - Một góc nhìn

Luu o day de  tien lien he den VN hien nay.

Trong những năm gần đây, nhiều thị trường mới nổi đã trải qua những cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhắc đến như khủng hoảng Mexico năm 1994, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng Argentine 2001. Có rất nhiều băn khoăn xung quanh sự xuất hiện của những cuộc khủng hoảng này, tuy nhiên có lẽ băn khoăn lớn nhất và cũng cần giải đáp tốt để có thể tránh được những cuộc khủng hoảng khác là làm thế nào một đất nước từ trạng thái tăng trưởng cao ngay trước cuộc khủng hoảng có thể biến chuyển rất nhanh chóng sang trạng thái khủng hoảng, sụt giảm kinh tế trầm trọng.  

Trên góc độ kinh tế, Frederic Mishkin, tác giả cuốn sách The Economics of Money, Banking and Financial Markets, đã tiếp cận giải thích trên khía cạnh vấn đề thông tin bất cân xứng. Chúng ta thử đi theo dòng phân tích của ông để hiểu về cơ chế cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997.

Tiến trình xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á rất khác với những gì đã xảy ở nước Mỹ, sự khác biệt này đến từ những đặc trưng khác nhau của cách thức tổ chức thị trường vốn và thị trường nợ. Hình dưới mô tả các giai đoạn xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á.

Một trong những yếu tố căn bản dẫ đến cuộc khủng hoảng là tình trạng xấu đi nhanh chóng của bảng cân đối kế toán ngân hàng mà nguyên nhân trực tiếp là từ những khoản vay không có khả năng thanh toán ngày càng tăng. Khi những quốc gia, đặc biệt ở khu vực Đông Á, bắt đầu nới lỏng các quy định với thị trường tài chính vào đầu những năm 1990, một làn sóng vay dâng lên rất cao, trong đó, hoạt động cho vay tín dụng với các khu vực kinh doanh phi tài chính tư nhân tăng đặc biệt nhanh. Cũng đồng thời do khả năng giám sát yếu của các cơ quản điều hành pháp lý ngân hàng, bản thân ngân hàng thiếu chuyên gia trong việc theo dõi và giám sát hành vi của đối tương vay, những khoản lỗ do nợ xấu bắt đầu tăng lên, tác động tiêu cực đến cả nguồn vốn thực của ngân hàng. Nguồn lực bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho vay, khi hoạt động cho vay không còn được tiếp tục, các hoạt động của nền kinh tế bị thu hẹp là điều dễ hiểu và tất yếu.

crisisflow.gif

Tuy có nhiều điểm khác với những cuộc khủng hoảng va suy thoái xảy ra cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở Mỹ, vẫn có một số điểm chung quan trọng ta có thể đưa ra so sánh, một trong những điểm chung đó là sự biến động tăng giảm bất thường và bất ổn của thị trường chứng khoán ở giai đoạn trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng và đóng góp vào làm trầm trọng hơn tác động của nó, những quốc gia diễn ra điểm này rõ nhất là Thailand, Nam Triều Tiên. Những quốc gia như Indonesia, Malaysia, và Philipines, tình trạng sụt giảm thị trường lại xảy ra đồng thời khi diễn ra cuộc khủng hoảng. Tại Thailand và Hàn Quốc, trước khi cuộc khủng hoảng diễn ra, nền kinh tế những nước này đã chứng kiến sự sụp đổ của những tập đoàn tài chính và phi tài chính lớn, những vụ sụp đổ này tác động tiêu cực và làm tăng tính bất ổn chung của thị trường tài chính trong nước.

Theo F.Mishkin, khi mà sự bất ổn tăng lên và giá trị ròng toàn thị trường chứng khoán (TTCK) suy giảm thì vấn đề thông tin bất cân xứng sẽ phát sinh. Đối với ngân hàng, sẽ có nhiều khó khăn trong việc xác định đâu là đối tượng cho vay tốt và đâu là không tốt. Suy giảm giá trị ròng toàn thị trường cũng đồng nghĩa với việc suy giảm giá trị của tài sản thế chấp, ký quỹ, đồng thời tăng khả năng đối tượng nhận vay nợ thực hiện các khoản đầu tư có mức độ rủi ro cao do lượng tài sản họ mất đi nếu khoản đầu tư không thành công sẽ nhỏ hơn. Sự gia tăng mức độ bất ổn và suy giảm TTCK xảy ra trước khi thực sự diễn ra cuộc khủng hoảng, cộng với các bảng cân đối tài sản của ngân hàng ngày một xấu đi, tất cả góp phần làm nảy sinh nhiều hơn vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Tất cả sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tiến ngày càng gần hơn đến một cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng.

Đến giai đoạn này, hoạt động đầu cơ nở rộ, xuất hiện đặc biệt nhiều trên các thị trường ngoại hối, đẩy nền kinh tế vào cuộc khủng hoảng trên mọi phương diện. Với Thailand, sự lo lắng về tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai và suy yếu của hệ thống tài chính, đẩy lên đỉnh điểm bởi sự sụp đổ của một một công ty tài chính lớn - Finance One, đã đưa đến một "cuộc chiến đầu cơ" lớn, tác động làm cho Ngân hàng Trung ướng Thailand phải cho phép thả nổi đồng Baht vào 7/1997. Không lâu sau, lại xuất hiện một "cuộc chiến đầu cơ" khác tác động vào những quốc gia còn lại trong khu vực và kết quả là sự sụp đổ dây chuyền của đồng Peso Philipines, đồng Rupiah Indonesia, đồng Ringgit Malaysia và đồng Won Hàn Quốc.

Cấu trúc tổ chức thị trường nợ khu vực Đông Á, tương tác với tình trạnh phá giá tiền tệ đẩy nềndue-diligence.jpg kinh tế khu vực tới cuộc khủng hoảng toàn diện. Có quá nhiều doanh nghiệp ở những quốc gia này có các khoản nợ phát hành bằng ngoại tệ như đồng USD hay Yen Nhật, sự mất giá đồng tiền trong nước làm cho tình trạng vay nợ, xét trên góc độ đồng nội tệ, thêm trầm trọng, ngay cả khi trên thực tế giá trị tài sản  của họ không hề thay đổi. Vào tháng 3/1995, khi đồng Peso mất nửa giá trị, tiền của các quốc gia như Thailand, Philipine, Malaysia và Hàn Quốc cũng mất trong khoảng từ một phần ba đến một nửa giá trị vào thời điểm đầu năm 1998, thì bản cân đối kế toán của hầu hết các doanh nghiệp đều đã xuất hiện những khoản lỗ lớn, vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trở lên trầm trọng. Trầm trọng nhất là Indonesia với đồng tiền mất giá đến 75% dẫn đến tình trạng vỡ nợ đối với những khoản nợ bằng ngoại tệ và giá trị những khoản nợ này không hề nhỏ, thậm chí rất lớn.

Một kết quả tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng đều tăng, từ đó lãi suất trên thị trường cũng tăng chóng mặt. Doanh nghiệp và các hộ gia đình do đó cũng phải thanh toán lãi suất rất cao, tác động tiêu cực đến bảng cân đối tài sản của họ. Thị trường nợ ở các quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng là những hợp đồng nợ có kỳ hạn rất ngắn, thường là dưới một tháng. Do đó lãi suất ngắn hạn tăng lên ở những quốc gia này đồng nghĩa với tác động rất lớn đến dòng tiền và bảng cân đối kế toán của các đơn vị trong nền kinh tế. Theo phân tích về tình trạng thông tin bất cân xứng của Mishkin, tác động xấu tới bảng cân đối tài sản, tiêu hao tài sản của doanh nghiệp và hộ gia đình làm cho các lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối với thị trường vay nợ cũng tăng theo và những tổ chức cho vay trong và ngoài nước không còn muốn tiếp tục cho vay nữa. Khi mà hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm thì cũng đồng nghĩa với việc các hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng GDP thực cũng sẽ sụt giảm theo.

Hình vẽ trên cho ta thấy tình trạng "xói mòn" tài sản trong nền kinh tế hình thành do các hoạt động trong nền kinh tế bị đình trệ và tình trạng xấu đi trong bản cân đối tài sản và xói mòn tài sản của từng doanh nghiệp, hộ gia đình, kết quả là tác động tiêu cực hơn đến cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng. Những vấn đề mà các doanh nghiệp và hộ gia đình đang phải đối mặt là phần lớn trong số những đơn vị cơ bản của nền kinh tế này đã không còn khả năng thanh toán nợ, điều này quay trở lại gây thiệt hại cho ngân hàng. Hệ thống ngân hàng còn phải đối mặt với một vấn đề trầm trọng khác là khối lượng rất lớn những khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ, trong khi đồng tiền trong nước bị phá giá, giá trị của những khoản nợ này tăng lên vùn vụt, điều này tiếp tục làm tiêu hao đi lượng tài sản thực đang còn rất ít của các ngân hàng. Trong tình trạng đó, lẽ ra toàn bộ hệ thống ngân hàng đã có thể sụp đổ nếu không có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ - giống như những gì Chính phủ Mỹ đã làm trong cuộc Đại khủng hoảng - nhưng không phải với nội lực của từng quốc gia mà nhờ sự giúp đỡ của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế), nhờ sự giúp đỡ này mà các quốc gia Đông Á tránh được một vụ sụp đổ với hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, với lượng vốn mà các ngân hàng đã mất thì sự can thiệp của Chính phủ nhằm chống đỡ cho hệ thống ngân hàng cũng không thể ngăn được năng lực cho vay của các ngân hàng sụt giảm mạnh. Mishkin giải thích khủng hoảng của hệ thống ngân hàng với những đặc tính như mô tả tạo lên một rào cản và gây khó khăn đối với các họat động cho vay của ngân hàng, làm trầm trọng thêm các vấn đề về lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính, ngân hàng mất dần vai trò truyền thống trung gian tài chính.

finprob.jpgMột số thông số về biến động các quốc gia Đông Á trong khủng hoảng:

Philippines

Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất lên1.75 điểm phần trăm và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Khi cuộc khủng hoảng bắt đầu diễn ra tại Thailand vào ngày 2/7/1997 thì một ngày say đó, ngày 3/7/1997, NHTW Philippines bị buộc phải can thiệp sâu vào thị trường nhằm bảo vệ đồng peso, tăng mức lãi suất vay qua đêm từ 15% lên 24%. Giá trị đồng peso giảm mạnh từ 26 peso ăn một USD lên 38 peso vào năm 2000, và lên 40 peso khi kết thúc cuộc khủng hoảng.

Hong Kong

Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trả  Hong Kong lại cho Trung Quốc. Tháng 10/1997, tỉ giá đô-la Hong Kong được cố định so với đô-la Mĩ là 7,8:1, tuy nhiên chịu sức ép rất lớn từ hoạt động đầu tư bởi lạm phát của Hong Kong đã cao hơn rất nhiều so với lạm phát của Mĩ và tình trạng này kéo dài nhiều năm. Cơ quan quản lý tiền tệ Hong Kong đã chi hơn một tỉ USD để bảo vệ đồng tiền trong nước. Tuy giữ được tỉ giá đồng tiền, TTCK Hong Kong trở lên cực kỳ bất ổn, chỉ số Hang Seng tụt 23% chỉ trong vòng ba ngày từ 20-23/10/1997. Lãi suất tiền vay qua đêm được nâng lên chóng mặt, đứng trước sức ép từ hoạt động đầu cơ, Chính phủ Hong Kong khẳng định tuyên chiến với hoạt động đầu cơ. Chính phủ đã kết thúc cuộc chiến này bằng việc bỏ ra xấp xỉ 120 tỉ đô-la Hong Kong (khoảng 15 tỉ USD) để mua lại cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp, trở thành cổ đông lớn trong một số công ty, chẳng hạn tại HSBC Chính phủ năm 10% cổ phần.

Hàn Quốc

Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên thế giới. Khi khủng hoảng xảy ra, với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ những khoản nợ kém hiệu quả rất lớn, Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3 vào tháng 11/1997 và tiếp tục hạ xuống B2 vào tháng 12. Sự kiện này góp phần làm thị TTCK Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn, giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors.

Đồng won Hàn Quốc giảm từ 1000 xuống 1700 won đổi một USD. Dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện GDP trên đầu ngườ, sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với trước đó.

Malaysia

Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều.) Ở thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước phát triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuống dưới mức bình quân cho các khoản đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng ringgit cũng mất 50% giá trị, còn 3.8 đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.

Nước Mỹ và Nhật Bản

Dịch cúm Châu Á cũng có ảnh hưởng đến nước Mỹ và Nhật Bản. Nền kinh tế tuy không sụp đổ nhưng cũng bị tác động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công nghiệp giảm 554 điểm, tương đương 7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch trong thời gian ngắn.

Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều nước Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng hoảng, đồng yen Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra ồ ạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng hoảng Châu Á cũng làm một số doanh nghiệp ở Nhật phá sản.

----------------------------------------------------------
Bài hợp tác của
www.saga.vn với Báo Điện tử Khuyến học & Dân trí. Bạn đọc có thể tham khảo bài viết theo link sau đây: http://dantri.com.vn/kinhdoanh/2007/5/177205.vip
----------------------------------------------------------

Lưu Quý Phương © Saga.vn (6/2007)

Wednesday 30 March 2011

371. Đánh úp

Theo Mr Tuấn's. Tối khuya, quyết định tăng giá xăng dầu mới được Bộ Tài Chính đưa ra và có hiệu lực sau đó chỉ chưa tới 2 tiếng đồng hồ, tức lúc 22h ngày 29-3. Một quyết định bí mật, ban hành bất ngờ, chỉ hơn 1 tháng sau khi xăng tăng giá kỷ lục (thêm 2.900 đồng/lít vào 24-2), chỉ 3 ngày sau khi Bộ trưởng Bộ Tài chính đăng đàn Quốc hội nói về việc kiểm soát giá cả, và chỉ 4 tiếng sau khi QH bế mạc. Rồi ngay sau đó, ngày 30-3, Chính phủ tổ chức họp, chắc thế nào cũng có phần  giải thích nguyên nhân và kêu gọi nhân dân bớt ra đường.
Ừ thì sự bí mật của quyết định tăng giá đã loại bỏ hoàn toàn các yếu tố đầu cơ, tích trữ, găm hàng vẫn tồn tại mà ví dụ điển hình có thể nhìn lại ngay trong tháng 2. Ừ thì sự bất ngờ, nhất là quyết định được công bố về đêm, đã tránh được nạn…kẹt xe khi hàng đoàn dân chúng, chỉ vì muốn tiết kiệm 10-20 ngàn, đã rồng rắn xếp hàng mua xăng nom rất… mất mỹ quan. Nhưng một quyết định hành chính liên quan đến sản xuất và đời sống của đất nước có nên chơi kiểu đánh úp như vậy?
Phản ứng đầu tiên ngay sau khi xăng tăng giá là thị trường chứng khoán đỏ lòm dù chưa đến mức bán tống bán tháo các bluechips. Còn người dân thì mang tâm lý của kẻ bị đánh úp. Phản ứng thứ hai là các DN vận tải đã kịp thời có phản ứng về việc tăng giá vé. Phản ứng thứ ba là giá cả ngoài chợ kịp thời được “điều chỉnh” mà câu thanh minh cửa miệng vẫn là “Điện tăng, xăng lại vừa tăng”. Sáng nay, cô bán bánh PappaRoti ở đối diện 103 Quán Thánh đã kịp thay bảng giá, sửa từ 12 lên 14 ngàn. Hỏi thì được cô đãi lại bằng một nụ cười: Xăng tăng giá đêm qua rồi anh ạ. Còn những phản ứng gì? Còn những gì tăng giá nữa thì trời mới biết.
Còn nhớ, phát biểu trước QH, chỉ 4 ngày trước khi xăng tăng giá, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh than vãn: Giá xăng hiện nhà nước không thu thuế 20% và “mới điều chỉnh một phần”. Ông nói, rằng: mặt bằng giá xăng ở VN hiện vẫn thấp hơn Lào và Campuchia từ 3,2 ngàn cho đến 5 ngàn đồng/lít. Rằng: Nếu tới đây giá xăng dầu thế giới tăng thì sẽ phải tiếp tục điều chỉnh giá trong nước. Còn giá thế giới giảm thì sẽ… khôi phục thuế. Nhưng Bộ trưởng Ninh nói về giá xăng dầu trong bài phát biểu chung về việc kiềm chế đà tăng giá và tăng cường quản lý giá. Không ai nghĩ ông phê cho giá xăng tăng chỉ 4 tiếng sau khi QH bế mạc. “Chúng ta theo thị trường từ 2009 và giờ phải quay lại theo thị trường”- ông nói. Quay lại theo thị trường, có nghĩa là do thị trường quyết định, tức là có tăng, có giảm theo sự tăng giảm mang tính thời điểm của thị trường. Nhưng thị trường kiểu Việt Nam đã cho thấy sự điều tiết mang khuynh hướng thành tích, mang dấu ấn ý chỉ cá nhân hơn là theo quy luật.
Một bằng chứng là để đảm bảo kiềm chế lạm phát trong năm tài khoá 2010, Chính phủ đã lắc đầu với mọi đề nghị tăng giá xăng dầu để chỉ số cá nhân người lãnh đạo Chính phủ không quá thấp trong dịp đại hội Đảng. (Chính Bộ trưởng Ninh cũng nói: “Đầu vào của một số mặt hàng phải kìm nén để đạt được mục tiêu ngắn hạn”). Giá xăng bị buộc dây suốt qua ĐH Đảng, buộc cho đến 24-2 và khi các cây xăng buộc phải đóng cửa, cột chó, trùm mền, thực chất cũng là một hình thức đình công- vì lỗ đến hàng ngàn đồng mỗi lít bán ra. Nhưng việc buộc dây giá xăng hôm qua, đã trở thành cái lò so giá hôm nay khi xăng lại tăng liên tục, và cũng liên tiếp lập kỷ lục về giá xăng dầu ở Việt Nam .
“Sẽ không có chuyện trình QH điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát”- Uỷ viên TƯ Đảng, Bộ trưởng chủ nhiệm VPCP Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố hồi đầu tháng 3. Năm ngoái, chỉ tiêu lạm phát được xác định là 7%. Tháng 5-2010, Chính phủ xin “nới” lên 8%. Kết quả lạm phát 11,37%. Năm nay, chỉ tiêu cũng vẫn là 7% trong khi 3 tháng đầu năm, CPI đã lên tới 3,7%. Cú tăng giá thứ hai, một kỷ lục mới, sau đợt tăng giá kỷ lục cũ chỉ hơn 1 tháng đã làm gần hơn câu chuyện xin nới chỉ số lạm phát. Mà lạm phát chính là cú đánh vào bữa cơm của dân chúng.

Tuesday 29 March 2011

370.Giá xăng lên 21.300 đồng từ 10h đêm nay (29/03/2011)

Theo Vnexpress.net Giá xăng lên 21.300 đồng từ 10h đêm nay

Bộ Tài chính tối nay bất ngờ quyết định tăng giá bán lẻ các loại xăng dầu thêm 2.000-2.800 đồng một lít, áp dụng từ 22h ngày 29/3.
> Giá xăng lên mức kỷ lục 19.300 đồng

Giá xăng vừa tăng lên 19.300 đồng một lít vào cuối tháng 2. Ảnh: Hoàng Hà
Giá xăng vừa tăng lên 19.300 đồng một lít vào cuối tháng 2. Ảnh: Hoàng Hà

Theo đó, giá xăng sẽ tăng 2.000 đồng một lít, loại A92 từ 19.300 đồng hiện nay lên 21.300 đồng/lít. Dầu diezen có mức tăng cao nhất 2.800 đồng lên 21.100 đồng một lít. Dầu hoả tăng 2.600 đồng/lít (từ 18.200 đồng/lít lên 20.800 đồng/lít). Mazut tăng 2.000 đồng/kg (từ 14.800 đồng/kg lên 16.800 đồng/kg).

Quyết định này được công bố lúc 20h và có hiệu lực thi hành hai tiếng sau đó.

Đợt tăng giá này được coi là không thể đừng trước sức ép từ thị trường nhiên liệu thế giới. Nhiều ngày qua, giá xăng dầu thế giới biến động mạnh và vọt lên mức rất cao trước chiến sự Libya và nguồn cung được dự báo là có thể khan hiếm. Tại thị trường trong nước, Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất – nơi cung cấp khoảng 30% lượng hàng đang trong giai đoạn dừng hoạt động để kiểm tra, bảo dưỡng. Việc dừng này khiến cho thị trường thiếu khoảng 400.000 m3 sản phẩm các loại.

Trong 30 ngày qua, giá xăng thành phẩm giao dịch tại thị trường Singapore đã vọt lên mức 118,71 USD một thùng.Các loại dầu dao động quanh ngưỡng 131,6 đến 131,8 USD một thùng. Theo tính toán của các doanh nghiệp, với giá này sau khi cộng thêm các loại phí, mỗi lít xăng, doanh nghiệp lỗ gần 2.500 đồng. Các loại dầu cũng có mức lỗ tương đương.

Cục trưởng Cục Quản lý Giá, Bộ Tài chính Nguyễn Tiến Thỏa cho biết đợt tăng giá này được ban hành căn cứ vào kiến nghị của doanh nghiệp và có sự đồng ý của Thủ tướng.

Gần đây nhất ngày 24/2, giá xăng dầu trong nước cũng có một lần điều chỉnh với mức tăng kỷ lục 2.900 đồng mỗi lít. Đợt tăng giá này được Bộ Tài chính khẳng định vẫn chưa đủ bù đắp chi phí và lỗ của doanh nghiệp. Trong khi quỹ bình ổn đã cạn, thuế về 0 và doanh nghiệp không còn đủ sức chịu đựng.

Hồng Anh

369.Trái phiếu lặng như tờ...

Theo vef.vn: Tuần trước, khi các ngân hàng bắt đầu giảm lãi suất huy động ngoại tệ thì ngân hàng XYZ bỗng nâng lãi suất tiết kiệm đô la Mỹ vượt hẳn lên trên 6%/năm. Ngay sau đó, ngân hàng này tăng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn đối với đồng Việt Nam lên 12%/năm, bỏ xa các tổ chức tín dụng khác.

Nhiều người chợt nhớ lại giữa năm ngoái, ngân hàng XYZ đã từng mua hàng ngàn tỉ đồng trái phiếu Chính phủ. Hồi ấy, họ là một trong những nguồn cầu trái phiếu nhiều nhất. Còn hiện tại thị trường trái phiếu đang lặng như tờ...

Tháng "hạn" của trái phiếu

Ba đợt phát hành trái phiếu chính phủ từ tháng 3-2011 đến nay đều không thành công. Đợt 1 bán được 145/6.000 tỉ đồng, đợt 2 được 139/6.000 tỉ đồng, đợt 3 được 30/3.000 tỉ đồng. Số trái phiếu ít ỏi bán được trong đợt 3 thuộc kỳ hạn 10 năm, lãi suất 11,5%/năm. Đây là mức trần cao nhất của trái phiếu được Bộ Tài chính ấn định trong suốt 18 tháng qua.

Lãi suất tiền đồng đang cao, ít ai còn để ý đến trái phiếu. Muốn kinh doanh trái phiếu phải có cả tiền và hàng (hàng ở đây là trái phiếu). Nhiều tổ chức đang nắm giữ trái phiếu, nhưng tiền thì không có hoặc có không đáng kể. Có tiền đồng cho doanh nghiệp vay hay mang lên thị trường liên ngân hàng kinh doanh lãi suất cao, hà cớ gì phải mua trái phiếu?

"Sóng" đã biến mất khỏi thị trường trái phiếu. Ngay cả những "tay chơi" trái phiếu chuyên nghiệp như Dragon Capital, ACB, Sacombank, Eximbank và những ngân hàng nước ngoài cũng khó tìm kiếm lợi nhuận bởi mua ngay - bán ngay, ăn phí ở giữa chẳng được bao nhiêu. Hơn nữa, thị trường quá nhỏ, có ngày giao dịch chỉ vài chục tỉ đồng, bên mua bên bán "nhẵn mặt" nhau, nên khó tìm phí chênh lệch.

Hiện tại thị trường trái phiếu đang lặng như tờ...
Nguyên nhân chủ yếu khiến giao dịch trái phiếu ảm đạm là do lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường mở đã được điều chỉnh lên 12%/năm. Chẳng ai dại gì mua trái phiếu lãi suất 11%/năm để rồi giao dịch trên thị trường mở 12%/năm. Thậm chí 12%/năm cũng không bán được vì không phải cứ đến ngày giao dịch là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa tiền đồng ra.

Bởi thế mới có chuyện phải xếp hàng trên thị trường mở để bán trái phiếu (từ "xếp hàng" theo nghĩa đen thực sự). Một số ngân hàng xếp ngay "cục gạch" đăng ký bán khối lượng trái phiếu tương đối lớn cho cả 5-7 phiên trong tháng 4. Tuy nhiên, đăng ký trước cũng chưa chắc bán được. NHNN còn xem xét ngân hàng đó có thật sự cần tiền đồng không, hoặc cần thì cần đến mức nào.

Xoay xở

Những ngân hàng có nguồn tiền đồng dồi dào, có kinh nghiệm buôn bán trái phiếu đang ẩn mình "săn mồi". Với việc cung tiền đồng đang bị siết chặt và chưa có dấu hiệu nới lỏng, lợi tức trái phiếu sẽ tăng lên trong tương lai gần là điều không phải bàn cãi.

Những ngân hàng như XYZ đã bị cuốn vào vòng xoáy mua trái phiếu phát hành - bán trái phiếu trên thị trường mở - lấy tiền có từ thị trường mở mua tiếp trái phiếu nhằm hưởng chênh lệch lãi suất trái phiếu - lãi suất thị trường mở suốt năm 2010 đang phải trả giá.

Điều nguy hiểm là ở chỗ trái phiếu thường có kỳ hạn dài, ít cũng 12 tháng, dài thì 10 năm, nhưng kỳ hạn thị trường mở chỉ 1-2 tuần. Giữa năm ngoái lãi suất trái phiếu phát hành có lúc chỉ còn 9,6-9,7%/năm, nay bán 12%/năm đã lỗ. Mà không bán, lấy tiền đâu trả cho thị trường mở?

Vì thế, ngân hàng XYZ chấp nhận nâng lãi suất huy động tiền đồng không kỳ hạn, chấp nhận cả huy động ngoại tệ lãi suất cao. Có ngoại tệ, họ chấp nhận chuyển đổi sang tiền đồng để đảm bảo thanh khoản.

Nghĩa là họ bắt buộc chấp nhận rủi ro tỷ giá, rủi ro mất cân đối vốn huy động đô la Mỹ/tiền đồng và đặc biệt rủi ro kỳ hạn. Đến lúc không thể chấp nhận nhiều hơn nữa, họ đành bán trái phiếu lợi tức cao. Năm 2008 đã có lúc lợi tức trái phiếu lên đến 20-24%/năm và đó là cơ hội cho những ngân hàng "săn mồi".

Hiện thị trường trái phiếu đang "phô trương" những chiêu xoay xở của cả kẻ mua người bán. Chiêu phổ biến là áp dụng sản phẩm phái sinh (derivatives). Người ta ủy thác cho những "tay chơi" lớn một cục tiền và "tay chơi" có thể mua trái phiếu quốc tế của Việt Nam phát hành ở nước ngoài.

Một số tổ chức cho biết họ được đối tác nước ngoài chào mời mua trái phiếu quốc tế của Vinashin với mức chiết khấu cao so với giá phát hành ban đầu. Một đại diện của Dragon Capital nói họ đang quan sát biến động của trái phiếu Vinashin, hiện giá giao dịch đã thấp hơn năm 2010.

Đơn giản hơn, một số ngân hàng nhận repo trái phiếu với lãi suất ngang ngửa lãi suất thị trường liên ngân hàng. Mới đây lãi suất repo đã từng lên tới 24%/năm cho kỳ hạn một đến ba tháng, sau giảm xuống 22% rồi 20%/năm. Thông thường các con nợ được chủ nợ ưu tiên cho repo. Bí quá thì sử dụng chiêu gán nợ có kỳ hạn. Thí dụ ngân hàng A vừa bán trái phiếu thị trường mở tuần trước, nay đáo hạn phải trả tiền đồng mới mua lại được trái phiếu.

Tiền đồng không có, làm sao? Ngân hàng A đành gán nợ cho ngân hàng B, tức là trái phiếu mua lại từ thị trường mở sẽ ngay lập tức thuộc về B. Đổi lại B cho A vay tiền đồng để trả liên ngân hàng. Lãi suất vay tiền đồng là lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng. Hiện nó dao động từ 14-22%/năm tùy ngày và tùy từng thời điểm trong ngày.

Monday 28 March 2011

368.24112010- Kỳ niệm 1 năm ngày " Trâu bò đánh nhau... rồi lôi kéo cả ruồi muỗi vào" !! ( Restored)

Vậy là tròn 1 năm  kể từ ngày Trouble tại DVL xảy ra, đã hơn 1 năm rồi mà đến nay mình vẫn chưa nhận được đồng bạc nào cả !!

Ngẫm nghĩ lại, thấy mình quá ngây thơ khi tin tưởng rằng mọi việc sẽ được giải quyết theo con đường thương lượng tốt đẹp đôi đường.

Hôm nay ngồi lục lại các email để cung cấp chứng cứ cho Tòa mà cảm thấy đúng thật là mình quá.. ngốc nghếch. A chàng này đã có chuẩn bị kỹ mọi thứ. từ chuyện bòn rút tiền công ty, cắt COM, bao vây, "rút củi đáy nồi", phá hoại; đưa người nhà vào nẳm giữ các vị trí quan trọng, pass account qua cho anh em nhà hắn; ứng tiền không ký, khủng bố  và sẵn sàng dùng mafia khi cần thiết.



mà cũng không thể hiệu được, vì sao tranh cãi gay gắt như thế, bản thân hắn cũng từ viết email đòi đánh, đứng trước công ty chưởi bới thế mà cô nàng nhà ta vẫn còn tin hắn dzậy ta ? Phài chăng cô ta nghĩ thay vì chia 4/10; 4/10; 4/10 cho ba người thì bây giời chia 5/5 sẽ tốt hơn !! Sức mạnh đồng tiền quả là ghê gớm; 1 bài học đắt giá cho lòng tin !!

free counters

367.Mr Nút Rút 700Tr ( rút ngày 18/01/2010) từ tài khoản của DVL va đến 14h30', 21/01/2010 vẫn chưa trả ( Restored)

Việc đã đến nước này, Họp cũng đã họp hiều rồi, cũng đã thống nhất là tiến hành giải thể DVL từ tháng 11/2009 rồi, thế nhưng đến hôm nay 22/01/2010, vẫn chưa đi đến đâu cả !! Tại  sao không hợp tác  với nhau để giải quyết dứt điểm ? Đến giờ này còn rút tiền công ty mà không chịu trả lại ? Phải chăng là có ý đồ gì đó ! Tại sao phải để mình & Ms Lê Vân phải dùng biện pháp mạnh, đưa ra công an, để rồi mai này, lý lịch nó đen thui, không làm ăn được gì hết, Bạn bè, khách hàng người ta cũng hoảng sợ ? Nếu sợ phải quyết toán thì ngày xưa đừng có làm !! Đừng có LINK THE MONEY TO... FAMILY !!. Còn nếu muống lấy tiền sớm thì hợp tác với nhau để giải quyết cho xong !! Handslog, người ta đã xong hết rồi, bây giờ chỉ còn đem chứng từ về lưu 5 năm ( theo quy định của Luật quản lý thuế) là xong, còn DVL ?

From Rut700t-18-01-2010
From Rut700t-18-01-2010
From Rut700t-18-01-2010

Ke ke, những tưởng Công an kêu Mr Nic lên để làm việc thì Ổng sẽ có 1 chút thay đổi gì đó !! Nhưng hóa ra đúng la "Giang sơn để đổi, Bản tính khó đời".  Hôi sàng Luật Sư Vũ Foward cái tin nhắn mà  Mr Nic gởi cho LS Vũ. Đọc xong mà buồn cười:" Em xin lỗi vì đã làm liên lụy đến Anh Vũ.; Chỉ có những con người thiếu suy nghĩ mới làm ảnh hưởng đến người khác" !! Hah ahaha !

1. Ông biết làm phiền, làm ảnh hưởng đến người khác thì đừng có làm, làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của người khác mà nói xin lỗi là xong sao ? Trước khi làm phải suy nghĩ cho kỹ, chín chắn chứ ông !!

2. Mr Nic nói" Chỉ có những người thiếu suy nghĩ mới làm liên lụy người khác".  Ý của Cha Nic là nói tại sao mình và Ms Vân đ báo công an đây !! Cha cha, làm mình cũng phân vân 1 chút, bộ mình báo công an, nhờ Cơ Quan Công An Can thiệp là sai sao ?? Chẳng lẽ để cho Mr Nic rút tiền 1 cách đễ dàng thế sao ? Thời gian qua đã chứng minh rồi, mình nhường ổng 1 bước, ổng bước thêm 3 bước !! cho Nên mình phải nhờ đến công an thôi !! Hay là ý của Cha Nic này là: " Ông thích rút tiền thì cứ rút, mấy người đừng có báo công an nha, đừng có thiếu suy nghĩ mà báo công an nha, vì mấy người báo công an, thì lần sau làm sao Ông dám rút, làm sao ông có thể thực thi kế hoạch link the money to.......... family đây. Mà mấy người báo công an thì làm công an sẽ mời Ông lên,  và như thế sẽ làm phiền ông, làm phiền đến cái kế hoạch LINK THE MONEY TO..... FAMILY" ?

366.Chuyên gia hiến kế giúp DN vượt khó thời lạm phát

(VTC News) - "Đánh nhỏ thắng nhỏ, đánh chắc thắng chắc", "Tự cứu mình trước khi trời cứu"... là những giải pháp giúp doanh nghiệp (DN) chèo lái con thuyền của mình vượt qua khó khăn trong thời buổi lạm phát được hai chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh và bà Phạm Chi Lan đưa ra tại hội thảo "Bất ổn trong kinh tế vĩ mô - Hướng đi cho doanh nghiệp" do trường đào tạo doanh nhân PTI tổ chức tối 27/3.
"Đánh chắc thắng chắc..."

Trong thời kỳ lạm phát đang tăng cao như hiện nay, ông Lê Đăng Doanh khuyên DN nên sử dụng triết lý “đánh nhỏ thắng nhỏ, đánh chắc thắng chắc”. Có thể DN có phương hướng chiếc lược lớn, tầm nhìn toàn cầu nhưng phải hành động cụ thể và đi sát với thực tiễn bởi đây không phải là lúc các DN “mộng du” hay mơ tưởng.
Chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh cho rằng doanh nghiệp nên "đánh nhỏ thắng nhỏ, đánh chắc thắng chắc". Ảnh: Internet.


Theo đó, DN nên tính tới việc phân tích cái gì người  tiêu dùng tiếp tục mua, cái gì hạn chế mua. Chú ý phân tích SWOT (phân tích các thế mạnh, điểm yếu, những cơ hội, thách thức đối với một tổ chức. Đây là một công cụ trong lập kế hoạch chiến lược cho tổ chức) cho tình hình hiện nay trong chiến lược phát triển của tập đoàn và công ty.

Ông Lê Đăng Doanh cho rằng: “DN n xem xét tình hình, phân tích xem nhu cầu mặt hàng của thị trường có gì thay đổi không nhằm kịp thời đưa ra các phương án khác. Trong tình hình hiện nay, các DN đặc biệt chú ý tốc độ, hiệu quả, hoàn thành sớm nhất các hợp đồng, phương án kinh doanh. Bởi rất có thể phương án lúc đầu có lãi nhưng do thực thi chậm và có điều chỉnh nên phải chịu lỗ". "Đây là thời kỳ đòi hỏi các doanh nhân phải năng động", ông Doanh nhấn mạnh.

Ngoài ra, triết lý “Fast Follower” (người theo sau người đi đầu nhanh nhất) cũng là một cách làm các DN cần lưu tâm. Ông Doanh lấy dẫn chứng cụ thể: “Người đi đầu như Bill Gate có tiềm lực lớn, khoa học công nghệ lớn nên mới có thể đứng vị trí số một, nhưng vị trí đó luôn bị thách thức. Tuy nhiên, bạn có thể tìm cho ngành nghề của mình một hình mẫu tốt nhất, nhưng các bạn làm khác đi tức là không mất công sáng tạo từ đầu. Đây là triết lý mà nhiềDN Hoa Kỳ đang quan tâm”.

Mặt khác, các DN cần coi trọng nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường bộ phận nhân sự, đặc biệt chú ý tiết kiệm, đưa ra các định hướng, chính sách, chiến thuật lâm thời để thích nghi với tình hình.

"Tự cứu mình trước khi trời cứu"

Trong khi đó, theo chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan, phương châm đầu tiên cho DN trong thời lạm phát là "tự cứu mình trước khi trời cứu”.

Để làm được điều này, DN nên tìm kiếm cơ hội cải cách và tái cấu trúc bên trong. Đặc biệt, trong lúc thị trường liên tục biến động như hiện nay, DN cần phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu tình hình.

Theo chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan, DN nên "tự cứu mình, trước khi trời cứu". Ảnh: Internet
Với ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu hồi nửa đầu năm 2008, nhiều DN không chấp nhận buông xuôi và tự cứu mình. Nhưng từ giờ đến năm 2015, với những cột mốc mới, thách thức mới, đòi hỏi các DN phải rà soát lại chiến lược, bối cảnh thị trường trong nước và nước ngoài để có điều chỉnh. Rất cần theo dõi tình hình để biết được thách thức trong ngắn hạn và trung hạn của đất nước hiện nay và những năm tới, cũng như quan tâm các động thái chính sách.

Một vấn đề các DN cũng cần lưu ý là tăng cường liên kết trong chuỗi cung ứng, trong hiệp hội, ngành vùng. Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho biết:  “DN phía Nam đã rất chú ý đến điều này. Ví dụ ở Kinh Đô, việc đầu tiên mà DN này làm khi có bất ổn trong kinh tế vĩ mô là  mời các DN khác cùng tham gia chuỗi cung ứng thảo luận để cùng vượt qua khó khăn. Tôi thấy, lâu nay nhiều DN Việt Nam thiếu liên kết, thiếu hợp tác giữa các DN“.

Bên cạnh đó, DN cần chú ý nắm bắt các cơ hội mới khi nhà nước tái cấu trúc kinh tế. Khi đó, nền kinh tế sẽ nhấn mạnh đến phát triển công nghiệp phụ trợ, đây được xem là “lãnh địa” của các DN vừa và nhỏ. DN cần từ bỏ những dự án tốn kém, dự án bay bổng lãng mạn, xa rời lĩnh vực cốt lõi. Bà Lan lưu ý, tái cấu trúc là quay về lại lĩnh vực cốt lõi của mình.

Một vấn đề nữa mà bà Phạm Chi Lan cũng mong các DN quan tâm là áp dụng các sáng kiến ngắn hạn để giúp giảm chi phí, rút ngắn quy trình thanh toán, hạn chế vay vốn ngân hàng. Thêm nữa, các DN cần chú trọng tìm nguồn nguyên liệu, dịch vụ trong nước, phối hợp trong chuỗi tiết giảm chi phí cùng nhau đầu tư, cùng điều chỉnh chiến lược hợp tác cạnh tranh, mua cổ phần của nhau.

Thành Công

Sunday 27 March 2011

365.Chống tham nhũng phải như quét cầu thang

Quốc hội phản đối “cho” PVN 3.500 tỷ
Liên quan đến chuyện “cho” hay không cho Tập đoàn dầu khí quốc gia 3.500 tỷ đồng, nhiều đại biểu QH đã nói về Vinashin như một bài học nhãn tiền, và cả trong tương quan với hầu hết các DN đang khốn khổ vì lãi suất, vì tỷ giá,, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản chỉ vì không có tiền hiện nay.
Nhân dân chịu hậu quả.
Nguyễn Văn Tiến (Hà Nam) là người có ý kiến đầu tiên về việc phân bổ nguồn vốn 3.500 tỷ đầu tư cho ngành dầu khí. Ông Tiên mở đầu bằng câu chuyện thưởng tết: “Ngay dịp tết vừa qua, khi mỗi hộ nghèo được 200-300k thì ngành dầu khí thưởng tới 50-60 triệu đồng. Tiền này ở đâu ra. Ông lưu ý: Tập đoàn dầu khí VN (PVN) là DNNN chứ không phải DN tư nhân. Theo ông Tiên: “Thu nhập cần phải công bằng và chúng ta phải có chính sách, có biện pháp để đảm bảo điều đó”.
Việc phân bổ nguồn vốn cho 1 ngành không hề thiếu tiền, thưởng tết cao nhất ngưởng khiến nhiều đại biểu đề nghị “cần phải cân nhắc. Đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang) cho rằng “Về bản chất khoản 3.500 tỷ này không thuần tuý là lợi nhuận của DN”. Và trong tình hình hiện rất khó khăn và Chính phủ đang kiểm soát chặt chi tiêu công thì rất cần cân  nhắc trong phân bổ vốn cho PVN.
Đại biểu Lê Thị Yến (Phú Thọ) cũng tỏ ra băn khoăn “Chúng ta nói rất nhiều đến đầu tư dàn trải, việc sử dụng vốn trong nhiều năm qua còn nhiều bất cập chưa được xem xét tháo gỡ. Và số vốn cho PVN được xem là “phải bỏ rất nhiều tiền nhưng lại chưa đánh giá đuọc hiệu quả đầu tư”.
Là uỷ viên uỷ ban Kinh tế của QH, bà Phạm Thị Loan (Hà Nội) dẫn báo cáo của PVN và Bộ Công thương cho biết “Họ định đưa (số vốn 3.500 tỷ) vào 3 dự án, sau đó lại đưa vào 1 dự án, như vậy kế hoạch sử dụng không đồng nhất và rất tùy tiện”. Trong năm 2011, PVN dự định đầu tư 105 ngàn tỷ, nhưng ai là người duyệt danh mục này? Liên hệ với vụ Vinashin bà Loan tiếp tục đặt vấn đề: Vinashin đã để lại hậu quả 86 ngàn tỷ với lãi suất hàng tháng lên tới 15 ngàn tỷ mỗi tháng. Vậy với 105 ngàn tỷ của PVN thì lãi xuất mỗi tháng sẽ bao nhiêu? hiệu quả như thế nào? “Không thể nói là DN thì tự đầu tư bởi PVN là DNNN, nhà nước phải chịu trách nhiệm và nhân dân chịu hậu quả”. PVN có những toà nhà “số 1 VN” nhưng đó có phải là nhiệm vụ đầu tư của họ hay không?
Giải pháp xung quanh khoản đầu tư 3.500 tỷ, bà Loan đề nghị “Cần phải xem lại các khoản đầu tư cho dầu khí. Kiểm tra giám sát lại các khoản tiền đã đầu tư cho PVN đồng thời cần có cơ chế tài chính chung cho các DNNN trong việc sử dụng vốn nhà nước”. “Hiện có 120 ngàn tỷ (mà các DNNN) chưa nộp lại vào NSNN”, và đây là điều rất bất thường vì “không có nhà đầu tư nào bỏ tiền ra mà lại không thu tiền về- bà nói.
Đại biểu Vũ Văn Hải (Hưng Yên) cũng cho rằng: Các đơn vị chi tiêu công phải giảm 10% thì có nên chăng lại đầu tư cho PVN. Nếu cắt thì cũng phải cắt chung.
Trong tất cả các đại biểu phát biểu sang nay, không một ai có ý kiến ủng hộ việc phân bổ nguồn vốn 3.500 tỷ cho PVN, một người anh em của Vinashin cả.
“Không thể cứu Vinashin chỉ vì nó là Vinashin”.
Tiếp tục chủ đề xử lý kỷ luật trong vụ Vinashin, sáng nay, tất cả các phát biểu có nói đến Vinashin đều cho rằng: Cử tri không đồng ý với việc không ai bị kỷ luật.
Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) lien hệ việc xử lý kỷ luật trong vụ Vinashin với cuộc chiến chống tham nhũng. Trong việc xử lý vụ Vinashin cử tri không đồng ý. Họ nói: Thế nào là chưa đến mức phải xử lý. Họ nói hay là vì chúng ta là lãnh đạo cho nên chưa đến mức phải xử lý. Chống tham nhũng phải như Quét cầu thang, quét từ trên xuống chứ không thể quét từ dưới lên.
Ông Vũ Văn Hải (Hưng Yên) thì đặt vấn đề: Cử tri thấy rằng khi chúng ta phải tiếp tục hỗ trợ 42 DN của Vinashin nhưng tuyên truyền quá cho các DN của họ lại gây nghi ngờ trong cử tri. “Phép thần nào mà chỉ trong thời gian ngắn Vinashin đã thay đổi như vậy”- ông Hải nói và dõng dạc chuyển lời của một cử tri Hưng Yên tới Quốc hội: “Chúng tôi là nông dân, làm dự án nuôi bò, nuôi lợn, nếu không may bị chết vẫn phải trả nợ, nếu không trả được sẽ bị xiết nợ còn vụ Vinashin, thất thoát quá lớn nhưng không xử lý kỷ luật ai cũng là… điều khó hiểu. Lưu ý khi phát biểu ở tổ, ông Hải đã không dung chữ “điều khó hiểu.
Và đại biểu Đặng Văn Sướng (Long An) thì cho rằng hiện nay, các DN, chắc là làm ăn chân chính- vô cùng khó khăn, sản xuất cầm chừng, đang phải ăn dần vào vốn và đứng trước nguy cơ phá sản, ảnh hưởng đến công ăn việc làm. Ông kêu gọi QH, Chính phủ: Chúng ta không giãn nợ, khoanh nợ một cách đại trà. “Không thể cứu Vinashin chỉ vì nó là Vinashin”.

Theo Đào Tuấn'Blog

679.0 Hướng dẫn cài đặt AD RMS server ( Active Directory Rights Management Services) có trong Windows Server 2012.

Nguồn: https://mdungblog.wordpress.com/2018/06/21/simple-guide-huong-dan-cai-dat-ad-rms-windows-server-2012-r2/   Hôm nay mình xin giới thiệ...