Wednesday 28 December 2011

589.Mưu đồ can thiệp Đại Việt của nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII

TẠP CHÍ XƯA & NAY

Mưu đ can thiệp Đại Việt của nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII

SỐ 393 THÁNG 12 – 2011

Nguyễn Duy Chính

Đường lối bành trướng của Trung Quốc

Trước tình hình rối ren của Đại Việt cuốỉ thế kỷ XVIII, việc đem binh xuống phương nam không phải chỉ vì cái cơ hội nhất thời, mà đã nằm trong kế hoạch mở rộng biên cương của nhà Thanh từ lâu. Vua Càn Long muốn tỏ ra mình là một vị vua dũng liệt nên tìm đủ mọi cách để bành trướng thế lực và lãnh thổ ra mọi phía.

Nhà Thanh trong nửa cuối thế kỷ XVIII đã có ảnh hưởng quan trọng đối với Xiêm La khi một người Tàu gốc Quảng  Đông tên là Trịnh Chiêu vì có công đánh đuổi quân Miến Điện nên lên làm vua (tức vua Taksin). Ồng ta sai sứ sang Bắc Kinh cầu phong nhưng sứ giả chưa kịp về đến nhà thì Trịnh Chiêu đã bị một tướng lãnh của ông ta là Maha Kasatsuk lật đổ lên làm vua tức Chakri(1) hay Rama I. Chakri cũng sợ nhà Thanh truy cứu việc giết vua Taksin nên đổi tên Hán là Trịnh Hoa, mạo xưng là con của Trịnh Chiêu để nối ngôi và được phong làm Xiêm La quốc vương. Nhà Thanh cũng nhân cơ hội tìm cách vươn dài ảnh hưởng tới thành phần Hoa kiều ngày càng trở nên có thế lực cả kinh tế lẫn chính trị ở vùng Đông Nam Á(2).

Ngoài Xiêm La, nhà Thanh cũng tìm cách mở rộng ảnh hưởng xuống Miến Điện Cũng như Việt Nam, Miến Điện luôn luôn bị áp lực trực tiếp vì có một khoảng biên giới tiếp giáp với nước Tàu. Người Miến cũng là một dân tộc quật cường, luôn luôn chống lại và có những thắng lợi rất tương cận với thắng lợi của Đại Việt(3).

Tới nửa cuối thế kỷ XVIII, nhà Thanh lấn chiếm một số khu vực phía tây và tây nam tỉnh Vân Nam nhưng người Miến cương quyết đòi lại. Năm Ất Dậu, Càn Long 30 (1765), vua Miến Hsin- byushin bắt một số tiểu quốc người Shan triều cống nên gây chiến với một số bộ lạc mà người Trung Hoa bảo trợ. Quân Thanh thua, tổng đốc Vân Nam Lưu Tảo tự sát. Năm Đinh Hợi, Càn Long 32 (1767), tổng đốc kế nhiệm là Dương Ứng Cư cũng bị đánh bại khiến vua Càn Long nổi giận đem họ Dương ra xử tử rồi sai Minh Thụy đem quân sang đánh Miến Điện. Năm Mậu Tý, Càn Long 33 (1768), Minh Thụy bị vây và tử trận. A Quế, vị tướng lừng danh của Thanh triều trong các trận đánh Tân Cương, Mông cổ đem quân sang lần thứ ba năm Kỷ Sửu, Càn Long 34 (1769) nhưng cũng bị đại bại.

Sau ba lần thua Miến Điện, nội bộ Thanh triều đã có những rạn nứt và bất đồng, nhiều tướng tài bị hi sinh, nhất là vua Miến Hsinbyushin lại cứng đầu không chịu thần phục. Một số tướng lãnh và quân sĩ bị bắt làm tù binh không được thả và vua Càn Long đành phải chấp nhận rằng Miến Điện là xứ nóng không thích hợp cho kỵ binh nhà Thanh như khi chinh phục vùng Tân Cương(4). May sao, quân Miến lúc này phải đối phó với quân Xiêm La và Lào tấn công ở phía nam nên nhà Thanh có cơ hội đàm phán cầu hòa cho đỡ mất mặt. Để trừng phạt, vua Càn Long hạ lệnh cấm thông thương với Miến Điện và hai bên chỉ trở lại bình thường năm Mậu Thân, Càn Long 53 (1788), mấy tháng trước khi họ đem quân sang nước ta.

Riêng với Đại Việt, Thanh đình vẫn e ngại bị thất bại như những triều trước nên không muốn chủ động gây chuyện can qua. Việc nước ta chia thành hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài vô hình trung phù hợp với chủ trương không muốn có một quốc gia cường thịnh ở phương nam. Đã nhiều lần xứ Đàng Trong toan tách ra đi thẳng với Thanh triều thay vì phải thần phục vua Lê ở miền Bắc nhưng vì không muốn tạo ra những khó khăn mới nên nhà Thanh chưa bằng lòng. Đến khi nhà Tây Sơn nổi lên, thế phân liệt Nam Bắc cũ đã mất, Thanh triều nhìn thấy đây là một cơ hội để can thiệp vào phương nam, rồi sẽ tùy theo tình hình mà khai thác. Việc thân quyến và bầy tôi nhà Lê chạy trốn sang Long Châu phù hợp với tham vọng đó.

Thoạt tiên, nhà Thanh vẫn chủ trương làm sao cho những phiên thuộc không quá mạnh, nên muốn Việt Nam chia ra thành ít nhất là hai tiểu quốc. Tôn Sĩ Nghị vì thế đã đưa ra kế hoạch chia cắt Đại Việt thành hai phần(5), miền Nam sẽ giao lại cho Xiêm La (khi đó đang khống chế cả Chân Lạp), và miền Bắc dành cho nhà Lê (dưới quyền bảo hộ của nhà Thanh). Tuy nhiên vua Càn Long đã bỏ kế hoạch đó vì không muốn cho Xiêm La nhúng tay vào, ngại rằng sẽ làm mất thể diện thiên triều phải liên minh với một thuộc quốc(6).

Dựa theo tin tức thu lượm được, vua Càn Long đưa ra một kế hoạch kẻ cả hơn. Đó là giao miền Trung lại cho Chiêm Thành lấy cớ nước này đã từng triều cống xưng thần với Trung Hoa trong mấy thế kỷ mà không biết rằng vương quốc Chiêm nay không còn và những vùng đất cũ của họ nay chỉ toàn người Việt(7). Vua Càn Long cũng chủ trương dùng người Việt đánh người Việt, quân Thanh càng ít tổn thất càng tốt. Trong một lá thư gửi Tôn Sĩ Nghị, vua Càn Long đã viết:

Bọn chúng (tức bầy tôi nhà Lê ở Bắc Hà) khi nghe quân Thiên triều đến chinh phạt, t sẽ nổi lên hưởng ứng rất đông, tính chuyện diệt Nguyễn phù Lê, nếu như ta án binh bất động, bọn họ không khỏi có dạ trông chờ. Đây là một cơ hội rất tốt, xem ra khi đó quan quân nội địa (tức quân Thanh) ở vào cái thế không thể không hành động…(8).

Chiến lược đó không phải mới mẻ gì vì cũng là đại kế hoạch mà người Mãn Châu trước đây đưa ra để làm chủ Trung Nguyên. Khi thôn tính nhà Minh, người Mãn Châu cũng nêu cao danh nghĩa giúp người Hán tái lập một vương triều trong sạch hơn triều đình thối nát hiện đang trị vì. Công lao lấy được trung nguyên cũng phần lớn nhờ vào nội phản, điển hình là các tướng lãnh nhà Minh có nhiệm vụ ngăn chặn những giống dân du mục nay trở giáo chạy theo quân Thanh.

Sau khi làm chủ Giang Bắc, họ cũng sử dụng những tướng lãnh nhà Minh đã đầu hàng để chiếm nốt miền Nam Trung Hoa, kể cả việc truy sát những ông vua cuốỉ cùng của Minh triều đang trốn lánh trong rừng sâu núi thẳm. Họ đã được phong vương, cai trị một cách khá độc lập nhiều khu vực lớn mà sử gọi là Tam Phiên, mấy chục năm sau mới bị tước đoạt quyền bính(9). Với kinh nghiệm đó, người Mãn Châu muốn trước hết nhờ tay đám thần tử nhà Lê tiễu trừ Tây Sơn, sau đó sẽ phong vương cho họ theo nghĩa phiên trấn nội thuộc như bọn Ngô Tam Quế, Cảnh Trọng Minh, Thượng Khả Hỉ, rồi dần dần biến thành quận huyện của Tàu như chính sách thời đầu nhà Thanh. Kế hoạch đồng hoá từng bước đó đã thành công tại những quốc gia Tây Vực và họ cũng toan áp dụng ở phương nam.

Kế hoạch của nhà Thanh

Để đem quân sang nước ta, ngoài việc tính toán cho chu đáo, sao cho lợi nhiều hơn hại, giảm thiểu về nhân mạng cũng như về tài chánh, nhà Thanh cần một danh nghĩa để che đậy những dã tâm của họ(10). Do đó Tôn Sĩ Nghị cần những bằng chứng cụ thể để thuyết phục vua Càn Long cho phép động binh.

Cho đến nay, các sử gia Trung Hoa vẫn khăng khăng cho rằng việc nhà Thanh đem quân sang giúp Lê Chiêu Thống là một hành vi “nhân chí nghĩa tận” (hết sức nhân nghĩa) hoàn toàn chỉ vì mục tiêu muốn dựng lại dòng chính thống cho nhà Lê chứ không có âm mưu chiếm đóng hay tham vọng đất đai nào.

Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị (tổng đốc Lưỡng Quảng) và Tôn Vĩnh Thanh (tuần phủ Quảng Tây) thì khi vua Hiển Tông thăng hà, “hoàng tôn Lê Duy Kỳ không có quốc ấn vì khi họ Trịnh còn nắm quyền đã ăn trộm mất ấn tín để mưu việc soán đoạt. Lê Duy Kỳ có viết biểu tâu lên để xin một quả ấn khác (tức ấn An Nam quốc vương của nhà Thanh phong cho) nhưng Tôn Sĩ Nghị chưa tiếp được bản cáo ai, lại chưa được chiếu chỉ cho phép nên đã từ chốỉ”(11). Căn cứ vào đó, hoàng tôn Lê Duy Kỳ được coi như dòng chính thống và việc Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long là một hành vi tiếm nghịch nên nhà Thanh phải can thiệp để lấy lại nước cho vua Lê.

Để thực hiện âm mưu lũng đoạn, chiến dịch đem quân can thiệp của nhà Thanh bao gồm hai giai đoạn chính:

Tái chiếm Bắc Hà để giao lại cho nhà Lê

Để đem quân sang nước ta nhà Thanh nêu cao chủ trương “Hưng diệt kế tuyệt, phất lợi kỳ thổ địa thần dân” [Hưng lên kẻ bị diệt, nối lại dòng bị đứt, không mưu lợi đất đai hay dân chúng]:

- Lê triều đã thần phục và triều cống Trung Hoa trong hơn một trăm năm qua [chỉ tính riêng nhà Thanh vì mỗi khi mệnh trời đổi coi như một nước mới]. Việc nối lại triều Lê là một hành vi thích đáng vì thiên triều có bổn phận với thuộc quốc, không thể để cho loạn thẩn ngang nhiên cướp ngôi một dòng họ đã được họ công nhận chính thức.

- Vua Càn Long cũng khẳng định là việc đem quân sang nước ta không phải vì có tham vọng Muốn chiếm đất đai hay dân chúng. Trong nhiều văn thư, ông cũng ra lệnh đem gạo thóc từ “nội địa” sang để nuôi quân, không tơ hào tài sản của nước Nam và ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị ước thúc quân lính không cho quấy nhiễu.

Tiến quân đánh Thuận Hóa

Dự tính nguyên thủy của Thanh triều không chỉ lấy kinh đô Thăng Long rồi giao lại cho nhà Lê mà coi việc tái chiếm Bắc Hà mới là bước đầu. Một khi thành công, quân Thanh sẽ tiếp tục đánh xuống Thuận Hóa để “đảo huyệt cầm cừ” [đánh vào sào huyệt bắt kẻ cầm đầu] rồi tùy theo tình hình mà chia nước ta thành nhiều khu vực tự trị. Từ vị trí một ngoại phiên (tương tự như Triều Tiên, Lưu Cầu, Xiêm La…), An Nam sẽ trở thành một nội phiên như Tây Tạng, Mông cổ, Tân Cương… tuy vẫn do những lãnh tụ bản xứ cai trị nhưng thực chất chỉ là những quan lại do triều đình bổ nhiệm.

Âm mưu đó trước khi xuất chinh còn mơ hồ – chỉ mới nằm trong những mật tấu của Tôn Sĩ Nghị – thì sau khi chiếm được Thăng Long lại trở nên khá rõ rệt. Có lẽ việc tiến quân quá dễ dàng khiến vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị đều tin rằng quân Thanh có thể làm hơn thế nữa. Ngay sau khi chiếm được Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị liền tính toán kế hoạch đóng thuyền và lập đài trạm từ Thăng Long vào Thuận Hóa để đến ra giêng tiến quân xuống phương Nam. Tuy nhiên kế hoạch đó không thực hiện được vì những khó khăn về quân đội, lương thực, nhân sự, tài chánh… nhất là e ngại một cuộc sa lầy tại phương nam giống như tại Miến Điện trước đây nên vua Cao Tông đã ra lệnh rút quân về.

Ngày 19 tháng 6 năm Càn Long 53 [22-7-1788], vua Cao Tông gửi một đạo dụ cho Tôn Sĩ Nghị dịch ra như sau(12):

Lưỡng Quảng, tổng đốc Tôn Sĩ Nghị tâu lên, tiếp theo căn cứ vào lời bẩm của Tả Giang Trấn thì thân quyến tự tôn nước An Nam chạy qua nội địa nên ta đã ra lệnh cho tùy nghi lo liệu, lại sai người đến ngay Long Châu, xem xét tình hình để tâu lên cho rõ ràng. Việc này trước đây khi Tôn Vĩnh Thanh tâu lên, trâm sợ rằng viên tri  phủ đó không có chủ kiến nên lập tức giáng chỉ ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị lập tức tra xét lo liệu.

 Hiện nay viên tổng đốc kia chưa đợi dụ chỉ đã khởi trình đến trước rồi, như thế thực là biết việc nặng nhẹ, không thẹn là kẻ đại thần ở biên cương, thật đáng khen ngợi. Trong tấu triệp của Tôn Vĩnh Thanh trước đây, chưa biết tung tích của tự tôn Lê Duy Kỳ đang ở đâu, mà chạy sang đến hơn sáu chục người thì có liên hệ thế nào? Trẫm đã từng ra lệnh tra xét cho thấu đáo, rồi tâu ngay lên cho ta.

Nay cứ theo như lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, lúc đầu cứ tưởng có cả Lê Duy Kỳ đi theo. Thế nhưng nếu ví thử Lê Duy Kỳ đích thân dẫn quyến thuộc sang nội địa thì cớ gì lại phải ra lệnh cho di quan Nguyễn Huy Túc đứng tên, còn bọn thổ tù Nguyễn Nhạc kia sau khi công phá Lê thành, thấy Lê Duy Kỳ bôn đào nên dn binh truy sát. Nếu cả nước đã bị họ Nguyễn chiếm mất rồi, ắt Lê Duy Kỳ mang quyến thuộc theo, tuy không quá 60 người, nhưng lẽ  nào đi đường không lo liệu tính toán gì mà đến được nội địa?

Lê Duy Kỳ nếu đã đến Long Châu nên truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị đến đó tận mặt hỏi Lê Duy Kỳ xem việc họ Nguyễn nổi loạn ra sao, hai bên vì cớ gì gây hấn, gặp nạn chạy sang nội địa cốt  lo bảo toàn tính mạng mẹ  con mà phải bỏ đất cho họ Nguyễn. Y bỏ nước chạy sang đây rồi, trong nước thần tử có ai lo chuyện diệt giặc khôi phục để nghinh đón mẹ con y vê hay không, xem chủ kiến y thế nào?

 Nếu như Lê Duy Kỳ  cũngng không biết rõ ràng thì nên hỏi bọn Nguyễn Huy Túc để cho rõ tình hình nước đó ngõ hầu theo tình hình mà trù biện. Theo ý trẫm thì vì quẫn bách mà tự tôn nước đó chạy sang nội địa, tuy trình lên không có giọng muốn xin quân cứu viện, nhưng nếu trấn mục nước đó có thể tụ tập dân binh, tảo trừ hung nghịch đón tự tôn về thì thế là tốt nhất. Còn như nhà Nguyễn đã chiếm được cả địa phương ở Lê thành nhưng các nơi khác vẫn thuộc họ Lê, các trấn mục không diệt được họ Nguyễn nhưng việc đã định vẫn có thể sắp xếp cho ổn thỏa để nghinh đoán tự tôn thì đất nước của nhà Lê cũng chưa đoạn tuyệt, cũng không cần phải hưng sư cho lớn chuyện làm gì.

Còn như họ Nguyễn công phá Lê thành xong chiếm hết nước An Nam, con cháu nhà Lê bị giết hại thì tự tôn nước đó không còn nước mà trở về. An Nam thn phục bản triều, rất là cung thuận, nay bị cường thần soán đoạt phải chạy sang đây nếu như ta bỏ qua không lý đến thật không phải là cái đạo tn vong nên phải tập trung binh lực kể tội sang chinh thảo.

Trẫm nay đã định đoạt rồi, lại truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị, tuân theo dụ chỉ trước đây, xem két kỹ lưỡng thêm nữa, trù biện cho chín chắn, cứ theo tình thực mà nhanh chóng tâu lên ta s đợi tới khi đó sẽ hạ chỉ để cho biện lý. Còn về phn thân thuộc của Lê Duy Kỳ thì nên sắp xếp cho ổn thỏa, cung cấp thêm chớ nên hẹp hòi, còn như các nơi cửa quan thì điều động một nghìn binh sĩ phân b ra trấn đóng.

Ngặt vì binh lính không có nhiều,  e rằng bọn phỉ thấy quan ít ỏi đâm ra coi thường thì hãy điều động thêm các nơi chung quanh hai ba nghìn lính na, phân  b‘ quan ải để làm thanh viện, đ đốc Tam Đức là người từng chinh chiến lâu năm, nên sai y đến đây thông lãnh, họp với việc đàn áp tra xét, không cần phải lo gì nữa. Còn Tôn Sĩ Nghị sau khi nghe bẩm báo, lập tức lên đường đến ngay thật đúng như ý trm, hịch văn cũng thật là đắc thể, ngoài những điều trm đã nói cũng không có gì khác, nay thưởng thêm cho một đôi hà bao lớn, một đôi hà bao nhỏ để tưởng lệ. 

Cùng ngày hôm đó, Tôn Sĩ Nghị tâu lên rằng một khi hư trương thanh thế, truyền hịch đem quân sang đánh nước Nam, ắt nhứng người đã theo Tây Sơn sẽ nổi lên chống lại, và nhà Thanh không phải hao quân tổn tướng mà vẫn đạt được thắng lợi’13‘. Vả lại, An Nam vốn chẳng phải là đất của Tây Sơn nên khi nghe tin quân Thanh sang đánh, họ sẽ rút về Quảng Nam không luyến tiếc. Mục tiêu gần của anh em Nguyễn Nhạc là thu vét tài vật thì họ đã làm xong, chiếm lĩnh đất đai chỉ là thứ yếu nên chắc chắn ra quân sẽ thành công.

Nói tóm lại, chủ trương của Thanh triều là làm sao tìm được vua Lê để tiền hô hậu ủng đưa ông về Lê thành [kinh đô Thăng Long], phong vương rồi can thiệp càng lúc càng sâu vào nội tình nước ta như một vùng nội phiên. Điều lợi trước mắt là vua Lê sẽ đích thân tham dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ, vừa chúc mừng, vừa tạ ơn đúng như ước nguyện của vua Càn Long để ông có dịp phô trương với mọi người về chính sách “nhân chí nghĩa tận” đối với thuộc quốc. Cơ hội nghìn năm một thuở này sẽ bắc cầu cho tiền trình thăng quan tiến chức của Tôn Sĩ Nghị.

Chiêu bài “Hưng diệt kế tuyệt”

Sau khi nhận được chỉ dụ của vua Càn Long, Tôn Sĩ Nghị xem xét tình hình mọi việc, ngày mồng 8 tháng 7 năm Mậu Thân, Càn Long 53 [9-8-1788] tâu lên chính yếu dịch ra như sau:

Tra xét việc hai họ Lê Nguyễn thù hằn giết chóc ln nhau nguyên do đã từ lâu. Theo lời bọn Nguyễn Huy Túc thì Nguyễn Nhạc là một họ nhỏ đất Tây Sơn, không phải họ lớn phụ chính (tức chúa Nguyễn ở Đàng Trong) nhưng hai bên đánh ln nhau cũng đã nhiều năm. Nay đất An Nam (nói về Bắc Hà) một nửa thuộc về Nguyễn Nhạc còn tự tôn vẩn làm chủ một giải Sơn Nam, đất đó có thể giữ được, quân binh có thể chiến đu, xem ra dòng nhà Lê chưa đến nỗi tuyệt, tước mà bản triều phong cho vẫn còn.

Còn như đất đai khi rộng khi hẹp, quốc thế lúc thịnh lúc suy, ngoại phiên của thiên triều thật nhiều, thế không thể lấy thước tấc mà đo, không phải lúc nào cũng lấy binh mã lương tiền của nội địa mà bao biện cho được. Nếu Nguyễn Nhạc có bụng chiếm cả nước An Nam, không để cho tự tôn một tấc đất, một nước triều cống trong một trăm mấy chục năm qua, nay bỗng dưng bị diệt, thực có liên quan đến thể thống thiên triều, không thể không điều động quan binh phạt bạo thảo tội.

(Ớ đây có lời châu phê của vua Càn Long: Trẫm phân vân chính là ở chỗ đó)

Dụ chỉ của hoàng thượng thật công bằng ngay chính, thần chỉ biết tùy thời tùy việc mà tuân theo biện lý.

Xin để cho thần tìm hiểu dư luận cho kỹ lưỡng, hỏi cặn kẽ tình hình nước man di kia, nếu như Nguyễn Nhạc có bụng gây họa, muốn chiếm cả nước An Nam thì nội địa không thể chỉ vì họ Lê trợ thế dương uy, e rằng tự tôn khó có thể giữ được nước, càng lúc càng tan rã, lúc đó Nguyễn Nhạc có cả nước An Nam, khí cục đã thành, không thể không hao phí binh lực nội địa, đến lúc đó cũng đã muộn rồi, thành thử thần xin được điều bát binh lực các nơi chung quanh, huấn luyện thao phòng, nói rõ định ngày ra quân, chia đường tiến đánh(14).

Nguyễn Huệ cũng hay biết tin này nên sai quân trấn thủ Văn Uyên là Hoàng Đình cầu và Nguyễn Đình Liễn đem lễ vật lên tiến cống, trên từ biểu ký tên là Nguyễn Quang Bình(15). Tuy chưa biết rõ tình hình ra sao nhưng Tôn Sĩ Nghị cũng hư trương thanh thế để dò xem phản ứng của quân Tây Sơn thế nào. Ngày mồng 1 tháng 7 năm Càn Long 53 [2-8-1788], Tôn Sĩ Nghị đích thân đến Nam Quan ra lệnh cho phó tướng Vương Đàn hiện đang chỉ huy hiệp Tân Thái đứng trên cửa quan, lớn tiếng đọc bản hịch kết tội rồi ném hịch văn qua bên ngoài tường để cho quân Tây Sơn nhặt được(16).

Trong tình hình đó, vua Càn Long ra lệnh cho Quân Cơ Xứ nghiên cứu tình hình, đến ngày mồng 5 tháng 7 năm Càn Long 53 [6-8-1788], A Quế trình lên dịch ra như sau(17):

Nước An Nam kia ở nơi phương nam xa xôi nóng nực, từ khi kiến quốc tự đời Tống đến nay, họ Nguyễn, họ Lý, họ Trần, họ Lê qua mây đời soán đoạt tranh chấp lẫn nhau. Đời Vĩnh Lạc nhà tiền Minh, nhân vì Lê Quí Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã ba lần sang dẹp loạn, mất đến hơn chục năm, ngặt vì dân nước đó tính tình phản phúc, nên cũng phải bỏ về nhân vì họ Trần vô hậu, khi Lê Lợi cầu phong liền sách lập trở lại.

Về sau hai họ Lê Mạc tranh giành nhiều năm, triều ta uy đức tràn đầy nên nước đó khuynh tâm thần phục, triều cng không dứt. Nhưng họ Lê không tự phấn chấn lên được, bị cường thần chế ngự, hiệu lệnh lại không ban bố xuống được toàn cõi, nguy cơ từ đó mà ra. Nay Lê Duy Kỳ bị Nguyễn Nhạc bức bách phải bôn đào, theo lời bọn di mục Nguyễn Huy Túc thì tự tôn nay chạy về một giải Sơn Nam mưu tính chuyện khôi phục.

Nếu như lòng người còn nhớ đến triều đại cũ, Lê Duy Kỳ có thể tụ tập binh dân tiễu trừ được Nguyễn Nhạc, thu phục Lê thành, nghinh đón quyến thuộc trở về. Hoặc giả tuy Lê Duy Kỳ hiện đang trn tránh, các di mục cũng có thể đón tự tôn mưu tính việc khôi phục, theo như thánh dụ đợi cho đến lúc mọi sự đã định, lúc đó sẽ đón quyến thuộc về nước, không cần phải hưng sư làm cho lớn chuyện. Còn như tất cả nước An Nam đã bị Nguyễn Nhạc chiếm đóng rồi, đợi cho Tôn Sĩ Nghị tra xét rõ rằng tin tức cùa Lê Duy Kỳ, tâu lên, nặng hay nhẹ, gấp rút hay thư thả, khi đó phải làm gì ắt thánh minh sẽ có biện pháp.

Quân Cơ Xứ là cơ quan quyền lực tối cao của nhà Thanh, chỉ sau hoàng đế, mọi việc đều do tập thể nhỏ bé này quyết định, A Quế là người đứng đầu nhưng chỉ trình lên rất chung chung, đủ biết họ không muốn can thiệp vào việc này. Trước đây, sử thường cho rằng những việc liên quan đến nước ta có thể lo lót một cá nhân mà xong việc. Thiển kiến đó xét ra không phù hợp với thực trạng đưa đến những nhận định sai lạc.

Chúng ta có thể khẳng định rằng các đại thần nhà Thanh đã không hưởng ứng việc đưa quân sang nước ta, việc động binh là do ý riêng của vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị, không thông qua quyết định của Quân Cơ Xứ.

CHÚ THÍCH:

1. Chakri nguyên nghĩa là nguyên soái hay tướng quân vì trước đây ông ta chỉ huy quân đội của Phraya Tak- sin và dùng tên này làm tên triều đại.

2. Đông Nam Á người Trung Hoa gọi là Nam Dương (biển phía nam) bao gồm khu vực mà ngày nay chúng ta đặt tên là Southeast Asia, Mã Lai A, Indonesia, Philippines.

3. Năm 1273, khi Nguyên Thế Tổ (Kubilai) nhà Nguyên đòi vua Miến triều cống và thân hành sang chầu, vua Miến Điện đã xử tử sứ giả. Năm 1277, nhà Nguyên đem quân từ Vân Nam xuống đánh, thắng được tại vùng lòng chảo Nam Ti nhưng người Miến vẫn không chịu khuất phục. Năm sau, 1278, nhà Nguyên lại đem quân sang đánh lần nữa, nhưng vẫn không tiến được đến kinh đô Bhamo. Khí hậu viêm nhiệt nhất là bệnh dịch đã khiến cho quân Mông cổ tổn thất nặng nề.

Năm năm sau, 1283, một đạo quân do tướng Mông cổ Singtur (thay vì do người Hồi chỉ huy như trước đây) tiến đánh thung lũng Ir­-rawaddy và ép vào kinh thành khiến, vua Miến phải lui về vùng đầm lầy để chống trả. Đến năm 1287, quân Nguyên chiếm được Miến Điện (khi đó có tên là Pagan) và sáp nhập vào đế quốc Mông cổ. Miến Điện chỉ thu hồi được lãnh thổ khi nhà Nguyên bị diệt vong. c.p. Fitzgerald, The Southern Expansion of the Chinese People, New York-Washington, Prae- ger Publishers, 1972, tr.81.

4. Alexander Woodside, “The Ch’ien-LungReign”, trong Willard J. Peterson (ed.), The Cambridge His­tory of China, Vol. 9, Part One: The Ch’ing Dynasty to 1800. Cambridge University Press, 2002, tr.264-68.

5. Để phá vỡ quyền lực của Nguyễn Huệ, Tôn Sĩ Nghị đề nghị với Càn Long rằng Việt Nam cần phải được chia cắt ra. Miền trung Việt Nam sẽ được thưởng cho Xiêm, để trả công cho sự giúp đỡ của Thái chống anh em Tây Sơn. Rõ ràng là đối với Tôn Sĩ Nghị và Càn Long, vua Lê mà họ đang ủng hộ hoàn toàn không có khả năng, ngay cả trong việc làm một lãnh tụ tượng trưng. Ban đầu, Càn Long nghĩ rằng một liên minh quân sự với triều đình Thái “dường như là một thứ có thể thực hiện được”. Sau đó ông bác bỏ ý tưởng này, không phải vì nó vô đạo đức về mặt chính trị, mà bởi nó sẽ cho thấy sự nhỏ mọn trước vua Thái, thậm chí tệ hơn là phá hoại danh tiếng ông có được trong chiến thắng Sinkiang với việc chỉ sử dụng quân đội của mình và không chấp nhận sự giúp đỡ của “thế lực quân sự bên ngoài”. Alexander Woodside, Sđd, tr.277.

6. Tuy nhiên theo một lá thư của giáo sĩ Le Labousse gửi từ Sài Gòn ngày 15 tháng 6 năm 1789 thì Nguyễn Ánh đã bắt được một bức thư của vua Càn Long gửi vua Xiêm yêu cầu đánh vào mặt nam Đại Việt (Le Roy d’ici (tức Nguyễn Ánh) a intercepté une lettre écrire au nom de L’empereur de Chinois au Roy de Siam pour lui dire de venir attaquer les T.s. de coté-ci par la Cochinchine). Nguyễn Nhã, “Một Thiên Tài Quân Sự”, trong Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Cali, Đại Nam, 1992, tr. 107-8, cước chú 38.

7. Alexander Woodside, Sđd, tr.277.

8. Trang Cát Phát, Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu, Đài Loan, Cố Cung Tùng San, Giáp Chủng số 26, 6-1982, tr.362.

9. Đời Thuận Trị, nhà Thanh phong cho Ngô Tam Quế làm Bình Tây Vương trấn đóng ở Vân Nam, Cảnh Trọng Minh làm Tĩnh Nam Vương, trấn đóng Phúc Kiến, Thượng Khả Hỉ làm Bình Nam Vương, trấn đóng Quảng Đông. Tam Phiên khi đó được giữ trọng binh, thế lực càng lúc càng lớn. Tháng 3 năm Khang Hy thứ 12 (1673), Thượng Khả Hỉ dâng sớ xin cáo lão về Liêu Đông để cho con là Thượng Chi Tín kế vị, nhân cơ hội đó triều đình xuống chiếu triệt phiên. Tới tháng 7, Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung (con của Cảnh Trọng Minh) cũng dâng sớ xin triệt binh, vua Khang Hy liền ra lệnh cho cả 3 phiên di chuyển ra ngoài Sơn Hải Quan. Ngày 21 tháng 1, Ngô Tam Quế khởi binh chống lại nhà Thanh, tuyên bố ủng lập Chu Tam Thái Tử (tức Chu Từ Quýnh, con của Sùng Trinh hoàng đế, khi đó thất tung nhưng người Hán dùng danh vị để phát động phong trào phản Thanh phục Minh), viết thư cho Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỉ cùng khởi sự, gây ra cái loạn Tam Phiên. Năm Khang Hy thứ 17, Ngô Tam Quế xưng đế ở Hành Châu, quốc hiệu Đại Chu nhưng chẳng bao lâu thì từ trần, cháu là Ngô Thế Phan kế vị. Ngày 19 tháng 10 năm Khang Hy thứ 20, quân Thanh đánh tới Côn Minh, Ngô Thế Phan tự tử, loạn Tam Phiên chấm dứt, tổng cộng 8 năm.

10. Mỗi lần nhà Thanh động binh đều phải tìm một cớ “chính đáng”, không bình định nội loạn thì cũng chinh phạt ngoại hoạn… Tuỳ trường hợp mà họ dùng một động từ thật kêu chẳng hạn như bình định Kim Xuyên, đãng bình Chuẩn Cát Nhĩ, chinh phục Hồi bộ, thảo phạt Miến Điện, tĩnh tuy Đài Loan, thảo hàng An Nam…

11. Lai Phúc Thuận, Càn Long trọng yếu chiến tranh chi quân nhu nghiên cứu, Đài Bắc, Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1984, tr. 30, trích từ Cung Trung Đáng, Cố Cung Bác Vật Viện, tấu chương của hai họ Tôn ngày mồng 8 tháng 5 năm Càn Long thứ 52 [22-6-1787]: “Nhiên dĩ vong thất quốc chi ấn tín, nhân Trịnh thị thiện quyền thời, tằng thiết đoạt quốc ấn, mưu thủ soán vị. Lê Duy Kỳ nãi tư thỉnh bằng tín, Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị dĩ kỳ vị kinh cụ bản cáo ai, thượng vị phụng chỉ thừa tập, bất tiện tiên cấp ấn tín, cự chi”.

12. Thanh Cao Tông thuần hoàng đế thực lục [Thanh Thực Lục], q 1307, tr 9, ỷ tín thượng dụ ngày Canh Tuất, tháng Sáu, Càn Long năm thứ 53. Trang Cát Phát, Sđd, tr.348-9.

 13. Nguyên văn theo tấu thư là “điếu phạt chi sư vị động, hưng kế chi nghiệp khả thành” quân điếu phạt chưa cần ra tay thì công việc làm cho kẻ mất nghiệp kia được trở lại đã thành rồi.

14. Trang Cát Phát, Sđd, tr.349. Cung Trung Đáng, CCBVV, tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8 tháng 7, Càn Long thứ 53 (1788); Quân Cơ Xứ, CCBW, bản sao tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 8 tháng 7 năm Càn Long 53.

15. Trang Cát Phát, Sđd, tr.353

16. Ngươi Nguyễn Nhạc đuổi chủ làm loạn cương thường, vọng tưởng việc soán nghịch. Tổng đốc nghe tin đã đích thân đến đây, đã tâu lên đại hoàng đế điu động quan binh các tỉnh Vân Quí, Xuyên Quảng, Phúc Kiến vài mươi vạn, chia đường ra tiến đánh. Nguyễn Nhạc ngươi nếu không hi tội tự mình đổi mới, nghinh đón chủ củ trở về, bảo toàn gia quyến, lại dám quấy nhiễu thiên triều, đem nạp công vật.

Di mục các ngươi đã từng nhận quan chức của họ Lê, bỗng dưng trở mặt thờ kẻ thù, thay chúng gõ cửa quan cầu xin, thực đúng là kẻ vô liêm sỉ. Đúng ra ta phải bắt các ngươi ngay để xin hoàng thượng hạ chỉ đem ra chính pháp. Nhưng nghĩ rằng các ngươi chỉ là những di quan thấp kém, không đáng để trừng trị, vậy hãy mau mau trở về nói cho Nguyễn Nhạc biết rằng, hoạ phúc chỉ trong nháy mắt, các ngươi tự thu lấy.

Trang Cát Phát, Sđd, tr.353-4. Cung Trung Đáng, CCBW, bản sao tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8 tháng 7 năm Càn Long 53 [9- 8-1788]. Bản văn này cũng xuất hiện trong Khâm định An Nam kỷ lược [quyển II], Cố Cung Bác Vật viện, Hải Nam, Hải Nam xuất bản xã, 2000 (bản dịch Nguyễn Duy Chính, chưa xuất bản).

17. Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, Sđd, tr.350.


Photo Album 2011-12-29




Viet_Lao_thai_ 20-12-2011_ 25-12-2011




Viet Lao thai

588. Viet - Laos-Thail_from Dec 20 - Dec 25, 2011

Thursday 8 December 2011

587.Bộ Tranh Việt Nam Anh Hùng Dân Tộc

Bộ Tranh Việt Nam Anh Hùng Dân Tộc

Mẹ Âu Cơ bảo vệ lãnh thổ! Y phục dựa theo y phục đồng bào miền núi và vương miện trên trống đồng. Quyền trượng có hoa sen làm đài nâng 2 nhành lúa trĩu hạt bao quanh bản đồ Việt nam – tượng trưng cho dân tộc Việt nam. Tranh vẽ theo lối fantasy và vẽ nhân dịp đồng bào biểu tình chống Trung Cộng tại Sài gòn và Hà nội tháng 5, và 6, 2011

 

Cha Lạc Long Quân bảo vệ lãnh hải! Tranh vẽ theo lối fantasy và vẽ nhân dịp đồng bào biểu tình chống Trung Cộng tại Sài gòn và Hà nội tháng 5, và 6, 2011. Cha Lạc Long Quân cầm giáo loại săn cá của ngư dân. Bán thân là rồng.

 

Hai anh em dũng tướng nhà Lê là Đinh Lễ – Đinh Liệt. Tranh vẽ theo lối truyện tranh tân thời với hai con hổ tượng trương cho hai mãnh hổ tướng Đinh Lễ, Đinh Liệt.

 

An Dương Vương Thục Phán chém yêu tinh gà trắng xây thành Cổ Loa với sự trợ giúp của thần Kim Qui. Gà trắng có lúc là biểu tượng của Tàu. Tranh vẽ theo lối fantasy art. Y phục của An Dương Vương phỏng tác theo hình ghi khắc trên trống đồng.

 

Bùi Thị Xuân tại pháp trường. Tranh ghi nhận lại phút oanh liệt của bà. Nhưng thể hiện theo lối fantasy art và luật phối cảnh của truyện tranh hiện đại với hàm ý bà như đã hoàn thành xong vai trò và nhẹ nhàng, thanh thản trở về trời.

 

Chinh phụ tiễn chồng tòng chinh – Lệnh vua hành quân trống kêu dồn, Quan với quân lên đường, Đoàn ngựa xe cuối cùng, Vừa đuổi theo lối sông. Phiá cách quan xa trường, Quan với quân lên đường, Hàng cờ theo trống dồn Ngoài sườn non cuối thôn, Phất phơ ngập trời bay….(Hòng Vọng Phu 1)

 

Chinh Phụ bế con trông chồng với bối cảnh thác Bản Giốc Cao Bằng, đây cũng là nơi có đá Vọng Phu – Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng, Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng. (Hòng Vọng Phu 2)

 

Đặng Dung dưới trăng mài gươm là một hình ảnh bi hùng trong lịch sử và thi ca (qua bài thơ Thuật Hoài nổi tiếng của ông) Tranh vẽ theo lối phối cảnh truyện tranh hiện đại. Hình ảnh thân thể Đặng Dung lực lưỡng tráng kiện không chỉ miêu tả ông thực vốn là người giỏi võ nghệ mà còn ý kêu gọi người Việt nam phải văn võ song toàn. (body and mind)

 

 

Đặng Tất – Tướng tài đời hậu Trần (cha của Đặng Dung) Ông đã lãnh đạo quân đội nhà hậu Trần đánh tan quân Minh tại trận Cô Bô – 1 chiến tích oanh liệt của ông. Tranh vẽ lại cảnh Đặng Tất tại Cô Bô. Y giáp dựa vào y giáp nhà Trần.

 

Đinh Tiên Hoàng Đinh Bộ Lĩnh được biết tới tài năng quân sự khi còn nhỏ tuổi đã bày trò cỡi trâu đánh trận. Tranh vẽ theo lối fantasy art với ý tưởng đưa hình ảnh cỡi trâu và cờ lau gắn bó với Đinh Bộ Lĩnh. Tranh cũng muốn đưa ý niệm thần thánh hóa những anh hùng lịch sử Việt nam, không chịu thua kém Trung Hoa.

 

Đinh Công Tráng và Phạm Bành cùng nghĩa quân tại căn cứ Ba Đình được bao bọc bởi lũy tre dày. Lá cờ của triều Nguyễn và phong trào hưởng ứng hịch Cần Vương.

 

Vua Gia Long Nguyễn Ánh – Thống nhất đất nước sau bao năm dài gian khổ chiến tranh, nội chiến. Tranh vẽ theo di ảnh của ông. Dùng bối cảnh kinh thành Huế vì ông lập kinh đô tại Huế (giảm thanh thế của Thăng Long) và ảnh bản đồ đất nước vào triều đại của ông. Hai chữ Việt Nam tên đất nước cũng từ triều của ông mà có tới nay.

 

Hồ Quý Ly và con Hồ Nguyên Trừng. Thời đại nhà Hồ được biết đến bởi Những cải cách mới và nhất là sự phát minh súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng)

 

Hoàng Diệu trong trận tử chiến giữ thành Hà Nội. Di ảnh của ông được dùng trong tranh. Bộ y giáp của triều Nguyễn còn lưu lại tại viện bảo tàng. Cảnh Pháp đánh thành Hà Nội phỏng theo tranh vẽ của sách sử của Pháp

 

Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Dùng di ảnh thật của ông đưa vào tranh.

 

Hội Nghị Diên Hồng
Tranh thể hiện tinh thần quật khởi, bất khuất và yêu độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

 

Tiếp nối truyền thống anh hùng. Tranh thể hiện tráng sĩ Sát Thát trao lại thanh giươm bảo quốc trừ dân cho thế hệ trẻ ngày nay.

 

Vua Hùng. Biểu tượng của nền văn minh lúa nước và đồ đồng thời đại nhà nước Văn Lang.

 

Công chúa Huyền Trân. Một cuộc hôn nhân đổi lấy bờ cõi từ Chiêm Thành cho Đại Việt. Cảnh vẽ công chúa Huyền Trân tại Chiêm Thành chuẩn bị cho hôn lễ, lòng buồn hướng về quê hương

 

Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo được xem có công trong việc cải cách hành chính và đặt cơ sở cho nền độc lập sau này. Y phục vẽ theo tượng của hai vị tại đền thờ.

 

Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tranh vẽ theo lối fantasy art với Lạc Long Quân nửa người là thân rồng. Tay ông cầm loại giáo thường dùng của ngư dân (thuận theo thuyết ông dắt 50 con mở mang miền biển) Y phục của Âu Cơ dựa vào hình vẽ trên trống đồng và của người Tây Nguyên. Tay cầm bó lúa tượng trưng cho ngành trồng trọt, nông nghiệp (thuận theo thuyết bà dắt 50 con mở mang trên đất liền) Hình ảnh bông lúa cũng hàm ý nói đến nền văn minh lúa nước Hòa Bình

 

Lê Chân – Một trong những nữ anh thư lừng danh nước Việt. Bà là người có nhan sắc, giỏi võ nghệ lại có tài thơ phú. Bà được Trưng Vương phong là Thánh Chân công chúa và bà rất giỏi thủy chiến. Tranh vẽ theo lối fantasy một trận thủy chiến của bà.

 

Lê Đại Hành Lê Hoàn – Vẽ theo lối fantasy art. Ông từng trông giữ thập đạo quân (thập đạo tướng quân) dưới thời vua Đinh. Cho nên tranh vẽ với bối cảnh đoàn hùng binh. Phía trên có rồng hiện ra tượng trương cho sự trỗi dậy của một Đại Cồ Việt. Các cờ hiệu lấy từ các linh vật được tạo ra trong khu đền thờ thời tiền Lê và tiền Lý.

 

Lê Lai dũng cảm mặc áo bào của Lê Lợi đột phá vòng vây của quân Minh

 

Vua Lê Thái Tổ Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Tranh vẽ theo lối fantasy art. Có thần Kim Qui dâng Thuận Thiên Kiếm. (Trên mai rùa có ký hiệu của Ngũ Hành Âm Dương: gợi ý về các khám phá hiện nay cho thấy thuyết này cũng có phần bắt nguồn từ Việt nam). Trong tranh có các chiếc lá với dòng chữ “Lê Lợi Vi Quân, Nguyễn Trãi Vi Thần” theo kế sách của Nguyễn Trãi

 

Lê Văn Duyệt – người có công mở mang đất đai nông nghiệp vùng miền nam. Ông là người điều hành việc đào kênh Vĩnh Tế.

 

Lý Nam Đế Lý Bí và Triệu Quang Phục. Y giáp được phỏng theo các tranh vẽ thường thấy của họa sĩ Việt nam

 

vua Lý Thái Tổ nằm mộng thấy rồng bay – dời kinh đô và đặt tên là Thăng Long. Tranh vẽ theo lối fantasy art với một số đặc trưng của Thăng Long

 

Lý Thường Kiệt và bài thơ Nam Quốc Sơn Hà bản dịch của Việt Toon – Hình Lý Thường Kiệt được phỏng theo các pho tượng Hộ Pháp Thần tại chùa cổ Việt Nam. Ví ông cũng như các vị anh hùng Việt nam là những vị thần thánh giáng trần bảo vệ non sông. Bức tranh này được làm đặc biệt để yểm trợ tinh thần yêu nước, gìn giữ giang sơn tổ tiên đặc biệt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

 

Lý Thường Kiệt và bài thơ Nam Quốc Sơn Hà bằng tiếng Hán – Hình Lý Thường Kiệt được phỏng theo các pho tượng Hộ Pháp Thần tại chùa cổ Việt Nam. Ví ông cũng như các vị anh hùng Việt nam là những vị thần thánh giáng trần bảo vệ non sông.

 

Lý Thường Kiệt và bài thơ Nam Quốc Sơn Hà bằng tiếng Hán, với bối cảnh trận chiến tại Như Nguyệt, nơi ông sử dụng bài thơ để khích lệ lòng quân – Hình Lý Thường Kiệt được phỏng theo các pho tượng Hộ Pháp Thần tại chùa cổ Việt Nam. Ví ông cũng như các vị anh hùng Việt nam là những vị thần thánh giáng trần bảo vệ non sông

 

Mai Hắc Đế Mai Thúc Loan. Vẽ theo lối fantasy art. Y phục Mai Hắc Đế theo y phục của người Tây Nguyên. Ông mạng Thủy nên dùng màu đen và cỡi trên lưng con Huyền Vũ. Gợi ý niệm về Kinh Dịch / Ngũ Hành mà theo một số học giả ngày nay phát hiện cũng có phần khởi xuất từ Việt nam. Trong tranh là thác Bản Giốc. Thác nước của Việt nam

 

Ngô Vương Ngô Quyền và trận đánh đi vào lịch sử trên sông Bạch Đằng. Tranh vẽ theo lối fantasy art và luật phối cảnh của lối truyện tranh mới. Y giáp được dựa theo một số tranh cổ và sự tưởng tượng. Bàn tay vung ra nắm đấm với ý nói: sẽ đập tan mọi cuộc xâm lược.

 

Chúa Nguyễn Hoàng (triều Nguyễn) người có công khai phá, mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía Nam. Tranh miêu tả chúa Nguyễn cùng dân di cư xuống miền Nam. Y phục dựa theo tượng của ông tại đền thờ.

 

Nguyễn Huỳnh Đức. Ông là một trong những hổ tướng của vua Gia Long (Ngũ hổ tướng Gia Định). Cảnh vẽ Nguyễn Huỳnh Đức đã dũng cảm cứu Nguyễn Ánh khi ông bị quân Tây Sơn vây (lúc Nguyễn Ánh còn trẻ) Trong rừng sâu, Nguyễn Ánh đã gối đầu lên đùi Nguyễn Huỳnh Đức ngủ vì tin cậy vào vị tướng này

 

Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi tại ải Nam Quan. Không chỉ nói về giai thoại Nguyễn Phi Khanh buộc Nguyễn Trãi quay về tìm cách phá giặc cứu nước mà còn muốn lồng vào tranh hình ảnh ải Nam Quan thuộc chủ quyền Việt nam. Bàn tay chỉ của Nguyễn Phi Khanh cũng nhấn mạnh ý này

 

Nguyễn Thiện Thuật cùng nghĩa binh căn cứ Bãi Sậy trong cuộc kháng chiến chống Pháp, hưởng ứng Hịch Cần Vương. Tranh vẽ mô phỏng theo di ảnh của ông

 

Nguyễn Trãi sau khi đại thắng quân Minh đang thanh thản gát kiếm viết lại bài Cáo Bình Ngô lừng danh. Tranh vẽ theo lối fantasy art. Dòng chữ viết thẳng lên trời như là những dòng thiên thư. Bối cảnh là một phần vách núi ảnh thật của ải Chí Linh nơi quân Lam Sơn đánh tan tác quân Minh. Trong tranh còn có cây vải và con rắn gợi ý tới vụ án “Lệ Chi Viên” sau này của ông

 

Nguyễn Tri Phương đôn đốc quân chống giặc Pháp đang tấn công thành – Tranh vẽ dựa theo di ảnh chân dung của ông

 

Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân cải trang thương buôn đột kích đốt cháy tàu Pháp trên sông Vàm Cỏ. Di ảnh chân dung ông được dùng trong tranh và các bó đuốc lá dừa đặc trưng của miền Nam

 

Nguyễn Xí – Một trong những khai quốc công thần của nhà Hậu Lê

 

Phạm Ngũ Lão đan sọt bên vệ đường. Bối cảnh kiến trúc lấy từ khu lăng tẩm lịch sử của nhà Trần

 

Phan Đình Phùng và Cao Thắng. Hình vẽ được họa theo di ảnh của Phan Đình Phùng. Cao Thắng bên cạnh, tay cầm súng trường vì ông là người đã sáng chế súng cho nghĩa quân

 

Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương. Tranh vẽ theo truyền thuyết ông đánh hổ dữ.

 

Phùng Thị Chinh – một nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Tương truyền bà vừa sanh xong đã dẫn quân đánh giặc. Tranh vẽ theo lối fantasy art và ronmanticism, một tay bồng con, một tay cầm kiếm đôn đốc quân sĩ tiến lên.

 

Quang Trung Nguyễn Huệ đang tiến quân đánh phá giặc Thanh vào dịp tết (có cành đào đất Bắc) Bộ trống trận danh tiếng của nghĩa quân Tây Sơn. Hình ảnh Nguyễn Huệ được vẽ theo các di ảnh còn lưu lại.

 

Tháng Gióng – Cỡi ngựa sắt phun lửa

 

Tô Hiến Thành – Chống Chân Lạp xâm lược, chinh phạt Chiêm Thành

 

Tống Duy Tân – Tranh vẽ dựa theo di ảnh của ông

 

Trần Bình Trọng thà chết không hàng. Với lối vẽ fantasy art muốn đưa ý niệm “Sinh vi tướng, tử vi thần” của các anh hùng Việt nam. Khi họ chết hồn phách tạc vào non sông để bảo vệ đất nước. Hình ảnh mãnh hổ như “chúa tể sơn lâm” và cũng là hình ảnh dùng chỉ cho các vị tướng sóai (hổ tướng). Bức gông xiềng vươn dậy từ núi rừng = nước Việt Nam dù bị cai trị ngắn hay dài rồi cũng sẽ có ngày bùng lên quật khởi

 

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đang viết bài hịch lưu truyền muôn đời: Hịch Tướng Sĩ. Phía sau là bối cảnh trận đánh oanh liệt tại sông Bạch Đằng. Y giáp phỏng theo tượng ông tại Sài gòn và tranh vẽ trên tiền của Việt Nam Cộng Hòa

 

Trần Nguyên Hãn – danh tướng của khởi nghĩa Lam Sơn, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đánh thắng quân Minh xâm lược và lập thành nhà Hậu Lê. Tranh phỏng theo tượng Trần Nguyên Hãn trước chợ Bến Thành.

 

Trần Nhật Duật – danh tướng nhà Trần. Tranh miêu tả trận đánh oanh liệt đi vào lịch sử của ông – trận Hàm Tử

 

Trần Quang Diệu – Một trong những mãnh tướng trụ cột của nhà Tây Sơn (Tây Sơn thất hổ tướng). Tranh vẽ theo lối hiện đại phỏng theo di tượng của ông tại đền thờ

 

Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đang điều quân tại trận thủy chiến lừng danh: Chương Dương. Y giáp dựa vào y giáp của Trần Hưng Đạo nhưng chọn vải cá để nhấn mạnh về cuộc thủy chiến quan trọng này

 

Trần Quốc Toản tay bóp nát trái cam khi không được tham dự hội nghị quân sự cao cấp tại Bình Than

 

Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục. Vua đầm lầy! Tranh vẽ theo lối fantasy art với hình ảnh một Xà Vương theo phò giúp Triệu Quang Phục (đầm Dạ Trạch có nhiều rắn là một yếu tố gây trở ngại cho các cuộc tấn công của giặc)

 

Bà Triệu – Tranh vẽ theo lối fantasy art thể hiện lời nói hào hùng của bà “đạp sóng dữ, chém cá kình”. Trong bức vẽ này dùng y phục của bà theo y phục thường thấy của tranh vẽ tiên nữ, cũng với ý niệm các anh hùng Việt nam cũng như thần tiên giáng trần

 

Bà Triệu – Tranh vẽ theo lối fantasy art thể hiện lời nói hào hùng của bà “đạp sóng dữ, chém cá kình”. Trong bức vẽ này dùng y phục của bà theo y phục áo dài khăn đóng

 

Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định – Vẽ phỏng theo di ảnh của ông

 

Việt Nam Anh Hùng – Con Rồng Cháu Tiên – Trai Gái Tài Sắc Vẹn Toàn – Tinh Thần Đại Việt Trường Tồn

 

Việt Nam Anh Hùng – Con Rồng Cháu Tiên – Trai Gái Tài Sắc Vẹn Toàn

 

Võ Đình Tú. Một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Ông còn được biết đến bởi tài nghệ sử dụng côn thật giỏi nên có danh gọi là “Côn Thần Võ Đình Tú”. Cảnh vẽ lại ông đã múa côn đỡ gạt mưa tên của quân Nguyễn Ánh khi quân đội của ông bị tấn công.

Không một mủi tên nào phạm được vào người ông. Y giáp dựa theo y giáp các tượng thờ ngũ hổ tướng nhà Tây Sơn

 

Yết Kiêu – Ông là một gia tướng giỏi của Trần Hưng Đạo, có biệt tài bơi lặn. Tranh vẽ lại hình ảnh một trận chiến của ông.

Ông là một gia tướng giỏi của Trần Hưng Đạo, có biệt tài bơi lặn. Tranh vẽ lại hình ảnh một trận chiến của ông

 

 

Hai Bà Trưng cưỡi voi chín ngà với trống đồng và biểu tượng mặt trời mọc


679.0 Hướng dẫn cài đặt AD RMS server ( Active Directory Rights Management Services) có trong Windows Server 2012.

Nguồn: https://mdungblog.wordpress.com/2018/06/21/simple-guide-huong-dan-cai-dat-ad-rms-windows-server-2012-r2/   Hôm nay mình xin giới thiệ...